Một người anh từng theo học ở Liên Xô, trong những năm 80 của thế kỷ trước, thường hay kể với chúng tôi nhiều kỷ niệm ấm áp và tình cảm đôn hậu, trong sáng của người dân Xô-viết nói chung và người Nga nói riêng. Và không chỉ có anh, tôi nghĩ rằng, rất nhiều người Việt Nam đã từng học tập, làm việc ở Liên Xô cũ và nước Nga ngày nay, kể cả những người chưa một lần đặt chân đến xứ xở Bạch Dương, cũng đều dành trong tim mình những tình cảm với đất nước và con người nơi ấy. Anh tôi bảo, có lẽ số phận nghiệt ngã của hai đất nước, hai dân tộc từng trải qua những mất mát hy sinh vô bờ bến trong các cuộc chiến tranh vệ quốc và giải phóng cùng những đặc tính chung như lòng hào hiệp, cao thượng và nhân văn, sự chung thủy bên nhau trong những giờ phút khó khăn của lịch sử, đã gắn kết hai dân tộc Nga - Việt.
Cho đến tận bây giờ, ngay cả với giới trẻ, văn học - nghệ thuật Xô-viết và của nước Nga xa xôi vẫn có sức hấp dẫn và những ảnh hưởng nhất định. Trên các giá sách của nhiều nhà sách ở Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, luôn luôn trang trọng góc văn học Nga với các tác phẩm xuất sắc của các tác giả: Pu-xkin, Tuốc-ghê-nhép, Lép Tôn-xtôi, Mai-a-cốp-xki, Sô-lô-khốp, Pau-tốp-xki, B.Pô-lê-vôi, Ôn-ga Béc-gôn, làm lay động tâm hồn bao thế hệ bạn đọc Việt Nam.
Cùng với văn học, những ca khúc Nga trữ tình vẫn tiếp tục vang lên trên các sân khấu, trong bao cuộc họp mặt, vui liên hoan như: Đôi bờ, Ca-chiu-sa, Tổ quốc, Chiều hải cảng, Chiều Mát-xcơ-va,... trong đó, không bao giờ thiếu ca khúc trữ tình Đàn sếu, một bài hát đầy xúc động và có lẽ là hay nhất về người lính Hồng quân Liên Xô trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Anh tôi kể, trong suốt những năm tháng tuổi trẻ theo học ở một thành phố miền trung nước Nga, trong các lễ hội của Ngày chiến thắng 9-5, bao giờ cũng vậy, anh luôn luôn thấy có những bà mẹ, những người phụ nữ Nga đã cao tuổi bên vệ đường, trên quảng trường hay trong các nhà ga, dõi mắt theo đoàn người mít-tinh, diễu hành. Họ đứng đó với bó hoa cẩm chướng trên tay và các tấm ảnh chân dung và tấm biển ghi tên cha, anh, chồng, con, những người lính Hồng quân đã không trở về sau ngày chiến thắng, thậm chí có khi chỉ là những bức thư thời chiến trận còn lưu giữ. Đối với họ, những người lính ấy không bao giờ chết và họ hy vọng về một ngày không xa sẽ gặp lại “trông chết cười ngạo nghễ” như lời thơ “Đợi anh về” của Si-mô-nốp.
Hình ảnh người phụ nữ Nga đợi người thân trong Ngày chiến thắng 9-5 hằng năm đã trở thành biểu tượng hy sinh của nhân dân Liên Xô và nhân dân Nga và cùng với hình ảnh ấy luôn luôn là vang vọng giai điệu mượt mà của ca khúc Đàn Sếu. Tuy nhiên, đây không phải là ca khúc trong bộ phim nổi tiếng Đàn sếu bay qua. Mặc dù nội dung bài hát nhớ về sự hy sinh của những người lính Hồng quân, nhưng thật ra bài hát lại được sáng tác vào năm 1968, nghĩa là 23 năm sau khi cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại kết thúc. Bài hát đã nhanh chóng lan truyền trên nước Nga và các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũng như nhiều nước khác trên thế giới, trong đó có đông đảo các thế hệ người yêu nhạc Việt Nam.
Bài hát Đàn Sếu do nhạc sĩ Y-an Phren-ken (Yan Frenkel) phổ nhạc bản chuyển ngữ tiếng Nga của Na-um Grê-bnép (Naum Grebnev) từ bài thơ cùng tên của nhà thơ Ra-xun Gam-da-tốp của Đa-ghét-xtan, một nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây và LB Nga ngày nay. Mang những giai điệu da diết và mượt mà, bài hát tưởng nhớ đến những người lính Hồng quân đã ngã xuống trên những thảo nguyên và cánh đồng bao la của Tổ quốc trong cuộc chiến tranh vệ quốc để mang lại Ngày chiến thắng và cuộc sống hòa bình cho mọi người. Ca sĩ Mác Bơ-nê (Mark Bernes), một ca sĩ nổi tiếng của Liên Xô chuyên hát các ca khúc về đề tài chiến tranh đã thể hiện bài hát và thực hiện thu âm. Đây cũng là bài hát cuối cùng mà Mác Bơ-nê đã cố gắng thu âm trước khi sức khỏe không cho phép và được in trong đĩa nhạc “Những bản ghi âm cuối cùng” của ông (Mác Bơ-nê qua đời khi bài hát được thu âm một năm).
Sau khi ra đời, bài hát Đàn Sếu nhanh chóng được yêu thích và được hát vang trong những Ngày chiến thắng 9-5. Ở Việt Nam, ca khúc Đàn Sếu đã được nhiều người dịch sang tiếng Việt, trong đó có bản chuyển ngữ của nhà thơ Hồng Thanh Quang được nhiều người yêu thích:
ĐÀN SẾU
Đôi lúc tôi chợt nghĩ rằng, người lính
Trong cuộc chiến tranh đẫm máu đã hy sinh,
Không vĩnh viễn nằm sâu trong lòng đất
Mà hóa thành những đàn sếu trắng tinh.
Họ bay mãi tự xa xăm quá khứ
Tới ngày nay và trò chuyện cùng ta,
Phải vì thế mà ta thường tư lự
Hay chạnh buồn khi lặng ngắm trời xa.
Hôm nay lúc hoàng hôn đang dần tới
Tôi bồi hồi khi thấy giữa màn sương
Đàn sếu trắng bay chỉnh tề hàng lối
Như đoàn người lê bước giữa đồng hoang.
Đàn sếu bay trên con đường dằng dặc
Và gọi tên những ai đó lao xao.
Phải vì thế mà âm thanh Avác
Tự bao đời giống tiếng sếu làm sao…
Bay, bay qua khoảng trời mệt mỏi
Trong bóng chiều, trong bát ngát màn sương,
Giữa đoàn quân ngỡ thừa ra khoảng trống
Hình như còn dành để cho tôi.
Sẽ có ngày tôi bay cùng đàn sếu
Trong mịt mờ sương xám tựa hôm nay,
Và ở giữa trời cao như chim tôi sẽ gọi
Tất cả mọi người còn lại ở nơi đây…
Sự hy sinh quả cảm vì Tổ quốc của những người lính sẽ không bao giờ bị lãng quên. Đó cũng là điểm gặp gỡ, sự đồng điệu trong tâm hồn của hai dân tộc Nga- Việt thông qua những bài thơ và bản nhạc như Đàn Sếu.