ND - Ðồng chí Ðoàn Khuê giã biệt chúng ta đã 10 năm, nhưng tấm gương của đồng chí và của biết bao người con ưu tú của Tổ quốc mãi mãi cổ vũ chúng ta trên bước đường chiến đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam thân yêu.
Ðồng chí Ðại tướng Ðoàn Khuê, sinh ngày 29-10-1923 tại làng Gia Ðẳng, xã Triệu Tân (nay là xã Triệu Lăng), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Sinh trưởng trong một gia đình yêu nước ở một vùng đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, đồng chí sớm thấu hiểu cảnh đau khổ của nhân dân bị đế quốc cai trị. Từ năm 1939, mới 16 tuổi, đồng chí đã tham gia hoạt động trong phong trào Thanh niên phản đế, thoát ly làm Bí thư Thanh niên phản đế Phủ Triệu Phong.
Ngày 22-9-1940, quân phát-xít Nhật tiến vào Lạng Sơn.
Ngày 27-9 năm ấy, nhân dân Bắc Sơn khởi nghĩa. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Trị, Phủ ủy Triệu Phong, Ðoàn Thanh niên phản đế Triệu Phong tổ chức rải truyền đơn kêu gọi hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn đánh đuổi Nhật - Pháp vào tối 20-10-1940. Biết anh Ðoàn Khuê là Bí thư Thanh niên phản đế Phủ Triệu Phong, địch truy lùng ráo riết. Ngày 30-10-1940, chúng bắt anh Ðoàn Khuê. Roi đòn bình thường không khai thác được, chúng trói hai tay chéo cánh gà, cột hai đầu ngón chân cái sát vào nhau, treo lơ lửng trong phòng tra tấn, lấy roi quất vào bàn chân, đau thấu tận óc. Một tuần nếm đủ các thứ đòn thù, anh Ðoàn Khuê kiên trung bất khuất, nhất quyết không khai nửa lời. Chúng tống anh vào lao cấm cố.
Ngày 28 và 29-4-1941, toàn nhà lao Quảng Trị làm reo chống khủng bố, anh Ðoàn Khuê là người tích cực đấu tranh.
Kẻ thù hoảng sợ, ngày 1-5-1941, chúng đày những người tù mà chúng cho là nguy hiểm lên nhà lao Buôn Ma Thuột. Anh Ðoàn Khuê mang số tù 2907.
Lúc này, Hồng quân Liên Xô đang gặp khó khăn lớn, chịu những thất bại tạm thời. Ở nước ta, có những người khi phong trào thuận lợi thì hăng hái tham gia, nay gặp phải khó khăn đã chán nản thốt lên: "Vĩnh biệt Mạc Tư Khoa". Trong tù, trước sự đàn áp và chiến tranh tâm lý của kẻ thù, một số tỏ ra thất vọng ở tiền đồ của cách mạng. Nội bộ tù chính trị phát sinh mâu thuẫn.
Chính trong những khó khăn đó, những người tốt, những người tích cực đã tìm đến nhau và đấu tranh rất gay gắt với những xu hướng tiêu cực. Dù ở hoàn cảnh nào, chỉ có đấu tranh mới giữ được ý chí, giữ được phong trào. Ðầu tháng 4-1942, tù nhân tuyên bố không đi làm để phản đối chế độ hà khắc của nhà đày. Ðịch thẳng tay khủng bố, cùm chân tù nhân suốt ngày đêm, phạt phải ăn cơm nhạt, cứ hai ngày một, lại cho lính vào đánh đập, máu tù nhân chảy ra chiếu, ra sàn nhà giam, phun lên tường, nhưng tiếng hô khẩu hiệu đấu tranh vẫn vang lên dữ dội, vọng ra đến ngoài thị xã. Trong cuộc đấu tranh kéo dài này, anh Ðoàn Khuê đã biểu lộ sự dũng cảm, kiên cường và hết lòng bảo vệ anh em.
Cuộc đấu tranh thắng lợi, nội bộ tù nhân đoàn kết, tư tưởng bi quan được khắc phục. Cũng vào lúc này, Hồng quân Liên Xô đã đập tan quân phát-xít Ðức tiến công vào Mát-xcơ-va. Anh Ðoàn Khuê được anh em tín nhiệm bổ sung làm thành viên của tổ chức trung kiên có tên là "Ủy ban vận động cách mạng" làm nhiệm vụ của một chi bộ.
Anh Ðoàn Khuê được giao nhiệm vụ nghiên cứu, tổ chức các cuộc vượt ngục, một nhiệm vụ khó khăn và nguy hiểm, đòi hỏi lòng dũng cảm, trí thông minh, đức tính kiên trì và cẩn mật. Anh đã thăm dò, tìm hiểu và đề xuất nhiều phương án khác nhau như vượt ngục lúc đi cắt cỏ ngựa, đi lấy than, lấy nước, chui qua hệ thống cống ngầm của nhà vệ sinh. Ðồng chí Nguyễn Chí Thanh đã vượt ngục thành công bằng cách trốn thoát khi đi cắt cỏ ngựa. Ở trong nhà tù, đồng chí Ðoàn Khuê học tiếng Ê Ðê, vận động binh lính người Ê Ðê.
Nằm trong "Ủy ban vận động cách mạng", đồng chí Ðoàn Khuê đã cùng các đồng chí lãnh đạo tổ chức nhiều cuộc đấu tranh phản đối sự đánh đập dã man, tàn bạo của nhà đày, đòi cải thiện đời sống trong những năm 1942, 1943, 1944... Ðặc biệt là cuộc đấu tranh đòi phải đổi tên chủ ngục Moshine, một tên gian ác và tàn bạo đã từng bắn chết 4 đồng chí ngay tại nhà ngục. Ðồng thời đồng chí Ðoàn Khuê lại cùng các bạn tù tranh thủ học tập những bài học ban đầu về quân sự do một bạn tù giảng dạy.
Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp. Ðây là thời cơ vượt ngục tốt nhất, trở về các địa phương lãnh đạo cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Ðồng chí Ðoàn Khuê được tổ chức phân công về Quảng Bình, sau đó được chỉ định làm Chủ nhiệm Việt minh tỉnh Quảng Bình. Ngày 15-8-1945, Ủy ban chuẩn bị khởi nghĩa tỉnh Quảng Bình được thành lập, đồng chí Ðoàn Khuê phụ trách quân sự. Ngày 23-8-1945, đồng chí Ðoàn Khuê trực tiếp chỉ huy lực lượng khởi nghĩa, thực hiện thành công việc cướp chính quyền ở tỉnh lỵ Ðồng Hới. Ủy ban khởi nghĩa chuyển thành Ủy ban hành chính tỉnh Quảng Bình, đồng chí được cử làm Ủy viên quân sự.
Xứ ủy và chính quyền Trung Bộ thành lập Ủy ban quân chính Khu C, gồm lực lượng vũ trang Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam do đồng chí Chu Huy Mân làm Chủ tịch, đồng chí Ðoàn Khuê làm Ủy viên.
Giặc Pháp gây hấn ở Sài Gòn, Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng dậy kháng chiến. Với nhiệt tình và lòng hăng say của tuổi thanh niên, đồng chí Ðoàn Khuê sớm đưa một đơn vị của tỉnh tham gia đội quân Nam tiến, do dồng chí chỉ huy. Từ đó, đồng chí Ðoàn Khuê hoạt động ở chiến trường Liên khu 5.
Thường khi tình hình khó khăn, địa phương và đơn vị cần người, Ðảng lại phái đồng chí Ðoàn Khuê đến. Ðồng chí được cử lên Gia Lai làm Chủ nhiệm Việt minh tỉnh Gia Lai, được cử về Quảng Ngãi làm chính trị viên, Bí thư Hiệu ủy Trường Lục quân Quảng Ngãi. Lúc này Tướng Nguyễn Sơn là hiệu trưởng. Ðồng chí được điều động về làm chính trị viên Tiểu đoàn chủ lực Hồ Hích và Bí thư Trung đoàn ủy; Chính trị viên, Bí thư Ðảng ủy Trung đoàn 126 chiến đấu ở địa bàn Gia Lai - Kon Tum. Trung đoàn 84 - Nam Tây Nguyên; Chính ủy, Bí thư Ðảng ủy Trung đoàn chủ lực 108 rồi Phó Chính ủy Sư đoàn 305. Trung đoàn 108 là lá cờ đầu của các lực lượng vũ trang Liên khu 5. Sư đoàn 305 là Sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ.
Kiên trung, bất khuất trong gông cùm của đế quốc, dũng cảm tranh thủ thời cơ chuẩn bị khởi nghĩa, đồng chí đã góp phần tích cực vào cuộc khởi nghĩa ở Quảng Bình thắng lợi. Là cán bộ Quân đội nhân dân, đồng chí đã chỉ huy và lãnh đạo chính trị các đơn vị được giao, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Theo Hiệp định Geneva, các lực lượng vũ trang Liên khu 5 tập kết ra Bắc. Ðồng chí Ðoàn Khuê được giao nhiệm vụ Chính ủy Sư đoàn pháo binh 675. Ngày ấy, khu vực giới tuyến quân sự ở vĩ tuyến 17, giáp sông Bến Hải là một khu vực chiến lược. Bố trí trên khu vực này là Lữ đoàn 270. Ðồng chí Nguyễn Chí Thanh, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, sau khi cân nhắc về bố trí cán bộ đã nói: "Ðồng chí Ðoàn Khuê gan lì lắm, hồi ở tù Buôn Ma Thuột, tôi biết. Ðối với cách mạng, đồng chí ấy không bao giờ nề hà hơn thiệt". Quân ủy Trung ương đồng ý với đồng chí Nguyễn Chí Thanh cử đồng chí Ðoàn Khuê từ Chính ủy Sư đoàn 351 xuống làm Chính ủy Lữ đoàn giới tuyến 270.
Ðang làm Phó Chính ủy Quân khu 4, năm 1964 đồng chí được Ðảng cử vào Khu 5 làm Phó Chính ủy Quân khu 5, Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên (thời kỳ mới thành lập). Ủy viên Thường vụ Khu ủy 5 và Ðảng ủy Quân khu 5.
Là một cán bộ trưởng thành qua chiến đấu, nhiều năm đảm nhiệm công tác Ðảng, công tác chính trị, trải qua thử thách trong những bước ngoặt của cuộc chiến tranh cách mạng chống xâm lược trên chiến trường đồng bằng Khu 5 và Tây Nguyên, đồng chí Ðoàn Khuê là một người chỉ huy và lãnh đạo trầm tĩnh, suy nghĩ có chiều sâu, nắm chắc những vấn đề cơ bản của đường lối chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, gắn liền lý luận với hoạt động thực tiễn, sâu sát chiến trường, xuống tận đơn vị cơ sở, kiên trì phát động quần chúng, phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến của cấp dưới, kiên trì bồi dưỡng và rèn luyện cán bộ, phát huy sức mạnh chính trị và tinh thần của bộ đội, khắc phục những khó khăn thiếu thốn, góp phần đánh bại các thủ đoạn nham hiểm, luôn luôn thay đổi của kẻ thù.
Ðặc biệt, trong những tình huống khó khăn, những bước ngoặt chiến lược, đồng chí Ðoàn Khuê luôn nêu cao dũng khí và trí tuệ cách mạng, tin tưởng vào sức mạnh của bộ đội và nhân dân, nhờ vậy, đã góp phần tích cực vào chiến thắng chung, như trước yêu cầu cấp bách phải đánh tiêu diệt gọn từng đơn vị địch tiến đến tiêu diệt chiến đoàn và trung đoàn quân ngụy ở Ba Gia, đánh phủ đầu quân viễn chinh Mỹ khi chúng mới đổ quân vào Chu Lai - Ðà Nẵng, ở Núi Thành, Chu Lai, Vạn Tường; thực hành chiến dịch tổng hợp, lấy cấp Sư đoàn chủ lực làm nòng cốt, như chiến dịch giải phóng Bắc Bình Ðịnh năm 1972; tập trung ưu thế lực lượng tiêu diệt các cứ điểm quan trọng như Nông Sơn - Trung Phước, giải phóng Tam Kỳ, Quảng Ngãi và Ðà Nẵng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên và ven biển miền trung rộng lớn, mở ra khả năng mới thực hành Tổng tiến công và nổi dậy tháng 4-1975.
Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, đồng chí là Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 5, Bí thư Quân khu ủy Quân khu 5, Ủy viên Trung ương Ðảng và Ủy viên Quân ủy Trung ương.
Khi làm nhiệm vụ giúp bạn ở Cam-pu-chia, đồng chí được phân công làm Tư lệnh phó - Tham mưu trưởng rồi Tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở Cam-pu-chia, Phó đoàn và sau đó là Trưởng đoàn chuyên gia giúp bạn Cam-pu-chia. Ðồng chí Ðoàn Khuê đã quán triệt tư tưởng cao cả của Ðảng ta "Giúp bạn là tự giúp mình", thương yêu và quý trọng nhân dân bạn như thương yêu và quý trọng nhân dân ta, đi đến những nơi nguy hiểm, khó khăn từ các vùng Ba biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia - Lào trên triền núi Ðăng Rếch đến Kô Kông, tích cực giáo dục Quân tình nguyện giữ nghiêm kỷ luật, được nhân dân, cán bộ và bộ đội bạn yêu mến.
Năm 1986, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị, được phân công đảm nhiệm cương vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân. Năm 1991, đồng chí giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương.
Quán triệt đường lối đổi mới về kinh tế, chính trị và quân sự - quốc phòng của Nghị quyết Ðại hội Ðại biểu toàn quốc của Ðảng lần thứ VI, đồng chí Ðoàn Khuê đã cùng với Ðảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng góp phần quan trọng từng bước xây dựng kế hoạch giữ nước một cách toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại trong điều kiện mới của cách mạng nước ta. Với tư duy chính trị - quân sự sắc sảo, tầm nhìn xa trông rộng, đồng chí Ðoàn Khuê đã góp phần cùng Ðảng đánh giá đúng đắn tình hình thế giới, khu vực và cục diện cách mạng nước ta, các khả năng đe dọa an ninh đối với Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa, tổ chức thực hiện thành công cuộc điều chỉnh chiến lược quan trọng, bảo đảm Tổ quốc ta đối phó với các tình huống, không bị bất ngờ về chiến lược.
Ðồng chí rất quan tâm chỉ đạo xây dựng các khu vực phòng thủ vững chắc và thực hiện cơ chế lãnh đạo của Ðảng đối với sự nghiệp quốc phòng. Thường xuyên chú trọng nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, phát huy phẩm chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ.
Ðồng chí là một cán bộ cách mạng kiên trung bất khuất, liêm khiết, có tính nguyên tắc cao, lối sống lành mạnh, cần cù và chịu khó học tập, quý trọng nhân dân và đồng đội, thương yêu chiến sĩ và cán bộ cấp dưới, suốt đời chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là tấm gương sáng không ngừng tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
LÊ KHẢ PHIÊU
Nguyên Tổng Bí thư BCH T.Ư Ðảng