Nhân bản chỉ tồn tại trong vòng 7 phút sau khi được hồi sinh. Điều này đã đem lại hy vọng cho các nhà khoa học về khả năng bất diệt của voi mamut lông xoắn như “một giấc mơ nhỏ nhoi”.
Để tuyệt chủng không phải là sự thật
10 năm sau, ngày 15-3, một nhóm các nhà nghiên cứu và các nhà sinh học đã tập trung ở Washington tại một diễn đàn có tên gọi TED bất diệt do tổ chức National Geographic Society tổ chức, cùng thảo luận về việc hồi sinh các loài động vật đã bị tuyệt chủng từ Hổ Tasmania, Hổ răng kiếm đến Voi ma mút lông xoắn và Chim cánh cụt Bắc Mỹ.
Mặc dù các nhà khoa học không nghĩ đến khả năng xây dựng một công viên kỷ Jura song một loài động vật đã tuyệt chủng hàng chục nghìn năm trước vẫn có thể hồi sinh nhờ mẫu AND cổ đại còn nguyên vẹn.
Một trong những hy vọng của các nhà khoa học đặt vào việc hồi sinh voi ma mút lông xoắn, một họ hàng của voi hiện đại đã tuyệt chủng từ 3.000 đến 10.000 năm trước đây. Xương của loài thú này hiện còn được bảo quản ở vùng băng tuyết Siberia. Các nhà khoa học Nga và Hàn Quốc cùng bắt tay thực hiện một dự án nhằm tạo ra một mẫu vật sống bằng cách sử dụng trung tâm lưu giữ ADN của các tế bào voi ma mút và trứng voi châu Á. Tuy nhiên, ADN của loài đã tuyệt chủng không được bảo quản trong các điều kiện tốt nhất của vùng Bắc cực theo yêu cầu, buộc các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu phải sử dụng genome (tập hợp toàn bộ ADN) của loài đã bị tuyệt chủng từ mẫu vật được trưng bày trên các giá đựng tại các viện bảo tàng trong một thế kỷ.
Carl Zimmer, nhà báo chuyên viết về khoa học khẳng định: “Nếu nghiên cứu về sự bất diệt đem lại điều gì đó cho khoa học, nó sẽ thúc đẩy các nhà nghiên cứu xem xét chất lượng của ADN của các động vật chết. Nhưng sẽ là không hiệu quả nếu bạn tiếp tục sử dụng công nghệ để hồi sinh chúng”.
Một ví dụ từ thực tế: một nhóm các nhà nghiên cứu về di truyền học từ trường Đại học Havard mà đứng đầu là George Church đã cố gắng hồi sinh chim cánh cụt Bắc Mỹ - loài chim đã biến mất ở khu vực băng tuyết phía Đông của Bắc Mỹ. Họ đã sử dụng các phân tử nucleotid trong genome của chim cánh cụt Bắc Mỹ từ một mẫu vật được độn trong viện bảo tàng hơn 100 năm. Nhóm nghiên cứu hy vọng việc kết hợp các gen chung đặc điểm vào một genome của chim bồ câu núi sẽ hồi sinh chim cánh cụt hoặc ít nhất sẽ tạo ra điều gì đó tương tự.
Vài năm sau, một nhóm nghiên cứu khác đã cô đọng ADN từ mẫu vật 100 năm tuổi của một cá thể hổ Tasmania con được ngâm cồn và bảo quản tại Bảo tàng Victoria ở Melbourne (Úc). Nguồn gene đi kèm có phôi chuột nhằm tăng cường chức năng của chuột sống.
Con người sẽ làm được?
Hiện nay, bất diệt đang là một khả năng dù tỷ lệ thành công không rõ rệt với nhiều câu hỏi đặt ra: Liệu con người có thể hồi sinh được các loài đã tuyệt chủng? Chúng ta phải làm gì với chúng?
Stuart Pimm tại trường Đại học Duke cho rằng các nỗ lực trên sẽ là một sự lãng phí lớn nếu các nhà khoa học không xác định được loài này cần thiết được hồi sinh bởi môi trường sống của chúng trên trái đất có thể bị đe dọa bởi nạn săn bắt.
Pimm khẳng định: “Loài dê núi Pyrenees cần một ngôi nhà an toàn. Vài người trong chúng ta muốn làm sống lại một số loài thú nuôi nhốt đã tuyệt chủng trong tự nhiên đã đặt ra một câu hỏi lớn: Chúng ta sẽ để chúng ở đâu? Những kẻ đi săn sẽ tiêu diệt dê núi dẫn đến tuyệt chủng. Tái thả một loài vào vùng sinh cảnh quen thuộc của chúng sẽ biến chúng thành miếng mồi đắt tiền cho những kẻ đi săn đang khát mồi”.
Pimm cũng lo ngại về sự bất diệt sẽ gây tác động không đúng rằng khoa học có thể cứu được bất kỳ loài nguy cấp nào, điều khác xa khái niệm bảo tồn. Nhưng một số người khác lại cho rằng hồi sinh một số loài tiêu biểu có tác dụng khuyến khích công tác bảo tồn loài. Zimmer cho rằng: “Một số người thấy việc hồi sinh một số loài nguy cấp và nuôi dưỡng chúng là một điều tuyệt vời và rất lôi cuốn”. Minh chứng cho điều đó chính là phiên bản chim cánh cụt vùng Bắc Hemisphere. Đây là loài chim đã tuyệt chủng vào giữa thế kỷ 19.
Các loài khác đã biến mất trước khi các nhà khoa học có cơ hội nghiên cứu các đặc tính sinh học nổi bật – giống như loài Ếch ấp con trong dạ dày đã biến mất ở Úc giữa những năm 1980. Loài này có tập tính ăn các cây gỗ và nấm.
Mike Archer, nhà cổ sinh vật học ở Đại học New South Wales khẳng định: “Không còn bất cứ loài ếch nào như vậy”. Ếch ấp con trong dạ dày có kiểu sinh sản đặc biệt: Con cái nuốt trứng đã thụ tinh, đưa từ dạ dày vào tử cung và sinh ếch con trong miệng.
Chính vì vậy, theo Archer thì chẳng có loài động vật nào lại có thể làm được như Ếch ấp con trong dạ dày, sử dụng một bộ phận trong cơ thể để thực hiện một chức năng khác. Archer đang nhân bản Ếch ấp con trong dạ dày trong trứng của ếch vùng đầm lấy Úc. Kết quả ban đầu, theo thông báo của Archer, nhóm nghiên cứu của ông đã tạo ra phôi giai đoạn đầu của loài Ếch ấp con trong dạ dày từ hàng trăm tế bào.