ND - Trong hơn ba thập kỷ qua, Trung Quốc đã hoàn thành giai đoạn quá độ về dân số và phát triển kinh tế một cách nhanh chóng. Hai điều kỳ diệu đã xảy ra ở một quốc gia đông dân nhất thế giới.
Thứ nhất, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGÐ) đã đạt được những thành tựu to lớn, hạ số con sinh ra bình quân cho một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ từ 5,8 con (năm 1970) xuống còn 1,8 con như hiện nay. Tính đến nay, Trung Quốc có 1,3 tỷ dân, tức bốn năm trước đây, cả nước đã tránh sinh ra hơn 400 triệu trẻ em. Vào năm 1996, tuổi thọ bình quân vượt quá 70 tuổi và đầu thế kỷ 21, Trung Quốc đã nằm trong số những quốc gia có mức sinh thấp, tỷ lệ tăng dân số thấp và tuổi thọ bình quân cao.
Thứ hai, trong khoảng 20 năm qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc đạt bình quân 9,6%/năm (năm 2006 đạt 10,7%) và tổng sản phẩm xã hội do vậy đã tăng 11 lần.
Những thay đổi về kinh tế - xã hội và quá độ dân số ở Trung Quốc trong thời gian qua đã làm thay đổi một cách cơ bản cơ cấu dân số, tương tự cũng đã xảy ra ở nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... do kết quả hạ thấp mức sinh nhanh chóng và giảm tỷ lệ tử vong. Sự khác biệt mang tính đặc thù ở Trung Quốc chính là những thay đổi không theo quy luật của cấu trúc tuổi và những thay đổi nhanh chóng của kinh tế - xã hội tác động tương hỗ lên mức sinh và mức chết. Theo dự báo, sau năm 2030, số người trên 65 tuổi ở Trung Quốc sẽ vượt quá số người từ 0-14 tuổi và như vậy Trung Quốc sẽ là một trong những nước già hóa nhanh nhất thế giới.
Một đặc trưng khác của những biến đổi cơ cấu dân số Trung Quốc là chuyển sang "cơ cấu dân số vàng". Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, 15% tăng trưởng kinh tế trong 20 năm qua là nhờ sự đóng góp của mẫu số dân số vàng này. Năm 1990, dân số trong độ tuổi lao động 15-64 chiếm 66,7% tổng số dân, trong khi tổng tỷ số phụ thuộc đạt 50%, đã đưa Trung Quốc bước vào kỷ nguyên "cơ cấu dân số vàng". Vào năm 2000, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động tăng lên 70,1%, kỳ vọng vào năm 2020 tỷ lệ này giữ nguyên ở con số 70%, trong khi tổng tỷ số phụ thuộc sẽ giảm xuống còn 37-45%. Như vậy, kỷ nguyên "cơ cấu dân số vàng" của Trung Quốc sẽ kéo dài khoảng 40 năm, mà việc sử dụng tỷ số phụ thuộc dưới 50% được coi là mốc chuẩn (ở Việt Nam, vào năm 2005 tỷ số này là 45%). Lợi ích mang lại do lực lượng lao động dồi dào và giá nhân công rẻ đã và đang tạo cho Trung Quốc thế mạnh trong phát triển kinh tế nhanh, không phải đối phó với nạn thiếu lao động như một số nước hiện nay.
Mặc dầu quá độ dân số ở Trung Quốc làm giảm tỷ số dân số phụ thuộc và do vậy đã tạo ra môi trường dân số thuận lợi cho tích lũy vốn và phát triển kinh tế, song những thay đổi về cấu trúc dân số cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Trong vòng 50 năm của thế kỷ 21, Trung Quốc sẽ đối phó với ba áp lực rất lớn: quy mô dân số lớn, dân số trong độ tuổi lao động lớn và già hóa dân số nhanh. Do đà tăng dân số vẫn còn quá lớn, dù Trung Quốc kiên trì thực hiện với chính sách dân số một con có điều chỉnh, song những biến đổi về cơ cấu dân số sẽ tiếp tục dẫn đến sự tăng trưởng dân số trong tương lai, dự báo trong thập kỷ tới, Trung Quốc vẫn duy trì đà tăng dân số với mức tăng 8-10 triệu dân/năm và trong vòng 25 năm tới, số dân Trung Quốc sẽ tăng 10%, tương đương tăng thêm 135 triệu dân.
Do quy mô dân số trong độ tuổi lao động lớn, tình trạng việc làm sẽ đặt ra nhiều thách thức. Trong hai thập kỷ tới của kỷ nguyên "cơ cấu dân số vàng", việc bảo đảm việc làm cho số lượng lớn dân số trong độ tuổi lao động là thách thức lớn đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Tỷ số giới tính khi sinh cao hơn mức bình thường cũng là một nguy cơ đối với sự ổn định xã hội. Sự gia tăng các luồng di dân đã tạo ra thách thức lớn đối với việc phân bổ các nguồn lực xã hội. Tính chất và quy mô khác nhau giữa các nhóm dân số nghèo càng đặt ra việc tăng cường hơn sự phát triển xã hội hài hòa vẫn là một nhiệm vụ rất cam go.
Khuynh hướng già hóa dân số ở Trung Quốc đã và đang đặt ra những thách thức về an sinh xã hội. Sự già hóa ở Trung Quốc đặc trưng bởi tốc độ tăng nhanh, quy mô lớn, và "già trước khi giàu". Hệ thống an sinh cho người già ở Trung Quốc mặc dầu đã được thành lập ở hầu hết các vùng nông thôn, song cho đến nay hầu hết người già chủ yếu sống phụ thuộc gia đình họ. Mặt khác, sự nghèo khó của người già đang tồn tại cả ở nông thôn lẫn thành thị, đặc biệt là vùng nông thôn, vì vậy, thúc đẩy bình đẳng và xóa nghèo vẫn là một nhiệm vụ lớn và những mục tiêu phát triển xã hội của Trung Quốc.
Trong thời gian tới, Chính phủ sẽ ưu tiên đầu tư toàn diện nhằm phát triển con người, cố gắng đạt mục tiêu từ kiểm soát số lượng tăng trưởng dân số sang giải pháp toàn diện đối với các vấn đề dân số, trong khi vẫn phải duy trì mức sinh thấp, nâng cao sức khỏe và trình độ giáo dục của nhân dân, cải thiện cơ cấu dân số, quản lý hợp lý sự phân bổ dân cư, bảo đảm an ninh dân số, đẩy mạnh sự biến đổi từ một nước đông dân sang một nước có sức cạnh tranh trong việc đầu tư cho nguồn vốn con người và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển bền vững giữa một bên là dân số và một bên là kinh tế - xã hội, các nguồn lực và môi trường.
Ngày 17-1-2007, BCH T.Ư Ðảng CS Trung Quốc và Hội đồng Nhà nước đã ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh toàn diện Chương trình DS-KHHGÐ và các vấn đề về dân số trong thế kỷ mới, nhấn mạnh: "Hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ làm công tác DS-KHHGÐ ở cơ sở cần được ổn định và tăng cường. Trong quá trình cải cách toàn diện các vùng nông thôn và điều chỉnh quản lý hành chính ở đô thị, đòi hỏi phải bảo đảm sự ổn định hệ thống tổ chức DS-KHHGÐ và đội ngũ cán bộ. Không cho phép sự xóa bỏ hay hợp nhất, thành lập mới hoặc thay đổi hệ thống tổ chức hiện tại...".
Ðối với nước ta, thực hiện Nghị quyết 47-NQ/T.Ư ngày 22-3-2005 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách DS-KHHGÐ, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 09/2006/QÐ-TTg ban hành Chương trình hành động của Chính phủ, trong đó đề ra đồng bộ các giải pháp, nhấn mạnh đến việc củng cố và kiện toàn bộ máy và cán bộ.
Sau gần năm năm thành lập và hơn hai năm thực hiện Nghị quyết 47-NQ/T.Ư của Bộ Chính trị, công tác DSGÐTE nói chung và DS-KHHGÐ đã dần đi vào nền nếp, đã đạt được một số kết quả nhất định. Ðể giải quyết thành công những nhiệm vụ hệ trọng liên quan đến đầu tư phát triển toàn diện con người, coi con người là vốn quý của xã hội ở một quốc gia sẽ đạt ngưỡng 100 triệu dân sau khoảng 15 năm tới, đòi hỏi phải có bộ máy chuyên trách không chỉ đủ mạnh mà quan trọng hơn là cần được ổn định và ngày càng được tăng cường từ T.Ư đến cơ sở, có sự tham gia của đội ngũ cán bộ chuyên trách và cộng tác viên tự nguyện tại từng điểm dân cư.
Việc bố trí một bộ máy tổ chức làm công tác dân số phù hợp trên cơ sở những bài học kinh nghiệm quý giá đúc kết của hơn 40 năm qua tại Việt Nam và của thế giới, đặt trong bối cảnh mô hình tổ chức mới sau bốn năm thành lập, tại một thời điểm mức sinh đã có biểu hiện tăng nhiều so với cùng kỳ năm trước bởi ảnh hưởng của tâm lý thích sinh con vào năm Ðinh Hợi và tiếp tục tăng do nhiều yếu tố liên quan khác là một vấn đề cần được quan tâm.