Chuyển đổi nhiên liệu tại các nhà máy điện than, hướng tới phát thải ròng về 0 vào năm 2050

NDO - Cần nghiên cứu, đánh giá một cách kỹ lưỡng, toàn diện tất cả các tác động trong việc chuyển đổi nhiên liệu than sang nhiên liệu Biomass và Amoniac trong mọi lĩnh vực, để xây dựng chương trình, giải pháp cụ thể, bảo đảm thực hiện, không gây bất lợi, thiệt hại cho tất cả các đối tượng khi tham gia chuyển đổi nhiên liệu.
0:00 / 0:00
0:00
Quang cảnh buổi làm việc.
Quang cảnh buổi làm việc.

Tại Hội nghị lần thứ 26 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP 26) diễn ra tại Vương quốc Anh, Việt Nam đã có những cam kết mạnh mẽ cùng gần 150 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050.

Tháng 12/2022, Chính phủ Việt Nam và Nhóm các Đối tác quốc tế (IPG), bao gồm: Liên minh châu Âu, Vương quốc Anh và Bắc Ireland, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Nhật Bản, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa Italia, Canada, Vương quốc Đan Mạch, Vương quốc Na Uy cũng đã chính thức thông qua Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP - Just Energy Transition Partnership), trong đó, dưới sự hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế về công nghệ và tài chính, thời gian đạt phát thải đỉnh của Việt Nam sẽ là năm 2030 và không quá 170 triệu tấn CO2.

Ngày 15/5, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) tại Quyết định số 500/QĐ-TTg. Trong đó quy định về việc định hướng chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và amoniac với các nhà máy nhiệt điện than đã vận hành 20 năm khi giá thành phù hợp và dừng các nhà máy tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.

Để triển khai thực hiện các cam kết nêu trên của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 cũng như lộ trình chuyển đổi năng lượng được nêu trong Quy hoạch điện VIII, ngày 12/6, Bộ Công thương tổ chức họp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và 3 Tổng công ty phát điện 1, 2, 3 cùng các chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện đốt than.

Chuyển đổi nhiên liệu tại các nhà máy điện than, hướng tới phát thải ròng về 0 vào năm 2050 ảnh 1

Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên phát biểu tại buổi làm việc.

Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Công thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh: Thực hiện chuyển đổi nhiên liệu than sang nhiên liệu Biomass (sinh khối) và Amoniac cần phải có kế hoạch, lộ trình phù hợp, bảo đảm phát thải CO2 theo lộ trình như Việt Nam đã cam kết; đồng thời phải bảo đảm không ảnh hưởng đến an ninh năng lượng, cung cấp đủ điện cho phát triển kinh tế-xã hội.

Do đó, cần nghiên cứu, đánh giá một cách kỹ lưỡng, toàn diện tất cả các tác động trong mọi lĩnh vực để xây dựng chương trình, giải pháp cụ thể bảo đảm thực hiện, không gây bất lợi, thiệt hại cho tất cả các đối tượng khi tham gia chuyển đổi nhiên liệu.

Trên cơ sở đó, Bộ Công thương đề nghị EVN, PVN, TKV và chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than nghiên cứu, đánh giá dựa trên các điều kiện thực tế của từng nhà máy về thời gian vận hành, đặc tính kỹ thuật, để đưa ra giải pháp và lộ trình chuyển đổi phù hợp, đáp ứng các yêu cầu với các nội dung:

Thứ nhất, nghiên cứu, xây dựng kế hoạch chuyển đổi nhiên liệu than sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và amoniac để triển khai áp dụng khi đủ 20 năm vận hành, bảo đảm hiệu quả kinh tế của nhà máy.

Thứ hai, đối với các nhà máy điện than không thể thực hiện chuyển đổi nhiên liệu hoặc không thu giữ CO2, đề nghị nghiên cứu xây dựng phương án dừng hoạt động khi nhà máy đã vận hành đủ 40 năm.

Chuyển đổi nhiên liệu tại các nhà máy điện than, hướng tới phát thải ròng về 0 vào năm 2050 ảnh 2

Phó Tổng giám đốc EVN Nguyễn Tài Anh phát biểu tại buổi làm việc.

Nói về vướng mắc cần được hướng dẫn tháo gỡ đối với các nhà máy nhiệt điện than do EVN quản lý, Phó Tổng giám đốc EVN Nguyễn Tài Anh cho biết: Hiện EVN đang quản lý, vận hành 15 nhà máy nhiệt điện than, với 36 tổ máy, tổng công suất đặt 12.633MW; trong đó, có 2 tổ máy đã vận hành trên 20 năm với công suất 600MW, 4 tổ máy đã vận hành xấp xỉ 40 năm với tổng công suất 440MW, 4 tổ máy vận hành gần 50 năm với tổng công suất 100MW.

Đến năm 2030, sẽ có thêm 4 tổ máy vận hành trên 20 năm với tổng công suất 1.230MW. Hiện EVN đã và đang tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và có kế hoạch chuyển đổi với một số tổ máy của các nhà máy Uông Bí mở rộng (tổ máy S7), Quảng Ninh (S1, S2) với loại nhiên liệu dự kiến sinh khối/amoniac.

Tuy nhiên, khó khăn chính là công nghệ đốt trộn amoniac hiện nay trên thế giới chưa hoàn thiện, mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm; chưa có nhà máy nào ở Việt Nam cải tiến, thử nghiệm đồng đốt amoniac và có đánh giá về tính kinh tế, kỹ thuật cũng như các ảnh hưởng tác động đến con người, môi trường và thiết bị.

Chưa kể đến khả năng cung cấp nhiên liệu amoniac/sinh khối trong giai đoạn hiện nay của các đơn vị trong nước và trên thế giới còn hạn chế, chưa bảo đảm nguồn để vận hành lâu dài và ổn định.

Các đơn vị như TKV, Tổng công ty phát điện 1, 2, 3, cùng các chủ đầu tư khác cũng nêu băn khoăn về giá biomass trên thị trường cao hơn giá than, chưa có cơ chế chính sách về hỗ trợ giá chuyển đổi cho nhà máy thực hiện đồng sinh khối, amoniac để các nhà máy mở rộng thử nghiệm, tìm kiếm đối tác cung cấp nguyên liệu lâu dài và chất lượng.

Ngoài ra, còn các khó khăn như vướng mắc về các thủ tục cấp phép liên quan, thủ tục môi trường ở Việt Nam do chưa có quy định cho loại hình năng lượng mới; chi phí đầu tư cải tạo, nâng cấp lớn, giá thành sản xuất điện sẽ có xu hướng tăng và tính hiệu quả kinh tế không cao trong khi tuổi thọ các hệ thống, thiết bị đã qua nhiều năm vận hành sẽ ảnh hưởng đến thời gian thu hồi vốn của dự án.

Tổng Giám đốc Tổng công ty Điện lực thuộc TKV Ngô Trí Thịnh kiến nghị: Để có thể chuyển đổi thành công nhiên liệu than sang sinh khối và amoniac, Chính phủ, Bộ Công thương và các cơ quan liên quan cần sớm có lộ trình cũng như cơ chế, chính sách cụ thể về quy hoạch vùng nguyên liệu, hỗ trợ tài chính, giá bán điện,... làm cơ sở để các nhà máy nhiệt điện và các đơn vị liên quan triển khai.

Kết luận buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên bày tỏ mong muốn, các doanh nghiệp sẽ nỗ lực nhiều hơn trong thời gian tới, do các nhà máy nhiệt điện than sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm cung cấp điện phục vụ đời sống sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt của người dân, xã hội.

Đồng thời, Bộ trưởng cũng đề nghị chủ sở hữu các nhà máy nhiệt điện than rà soát lại phương án để chuẩn bị nguồn nhiên liệu sơ cấp, phục vụ hoạt động của nhà máy trong mọi tình huống. Các chủ đầu tư, chủ sở hữu nhà máy nhiệt điện than cần tổ chức quán triệt kỹ trong đơn vị tinh thần việc chuyển đổi là phải làm.

Bên cạnh đó, chú trọng tìm hiểu, đề xuất cơ chế, chính sách của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, khu vực dựa trên các cam kết, tuyên bố của họ trên các diễn đàn, như Tuyên bố JETP... Trên cơ sở đó, Bộ Công thương sẽ tập hợp và có kiến nghị với tổ chức quốc tế.

“Việc này cần làm khẩn trương và không trì hoãn, thực hiện báo cáo trước ngày 15/7. Đồng thời nghiên cứu hợp tác và chủ động tìm kiếm các nguồn lực thay thế, các nguồn nhiên liệu thay thế như sinh khối, amoniac”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ đạo.

Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo sẽ chủ trì với các đơn vị có liên quan tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các cơ chế chính sách từ phía Việt Nam dựa vào những cam kết của các tổ chức quốc tế để đưa ra một số cơ chế chính sách ban đầu.