Phát biểu thảo luận tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị Chính phủ nghiên cứu tiếp thu tối đa, giải trình thuyết phục, thỏa đáng những vấn đề được cơ quan thẩm tra chỉ ra.
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh yêu cầu chuẩn bị kỹ lưỡng, tính toán các vấn đề, đặc biệt là nguồn vốn để bảo đảm cân đối được nguồn lực triển khai, bảo đảm tính khả thi, hiệu quả của các dự án; khi trình ra Quốc hội đạt sự thống nhất, đồng thuận cao.
Tạo không gian phát triển mới
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết: Thường trực Ủy ban Kinh tế nhất trí với sự cần thiết đầu tư các dự án, nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua và phù hợp Nghị quyết số 29/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, trong đó yêu cầu “khẩn trương chuẩn bị đầu tư, sớm khởi công và cơ bản hoàn thành các dự án đường vành đai 3, 4 của khu vực động lực Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh”.
Về sự phù hợp của Dự án đối với chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch có liên quan, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, các dự án được lập cơ bản phù hợp Chiến lược, Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thông qua; Quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn 2050 và phù hợp quy hoạch của các ngành, các địa phương có liên quan.
Thẩm tra dự án đường Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội, đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, theo Tờ trình số 126, Chính phủ đề xuất áp dụng hình thức đầu tư công kết hợp đầu tư theo phương thức đối tác công tư.
Theo Thường trực Ủy ban Kinh tế, dự án này có sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 85.813 tỷ đồng, trong đó sử dụng 56.403 tỷ đồng vốn đầu tư công và 29.410 tỷ đồng vốn BOT.
Do đó, hình thức đầu tư của dự án phải là dự án đầu tư theo phương thức đối tác công tư, vì vậy, đại biểu đề nghị Chính phủ rà soát, hoàn thiện hồ sơ dự án.
Về tốc độ thiết kế, theo Tờ trình, dự án thành phần 3 có vận tốc thiết kế 100-120 km/giờ. Tuy nhiên, theo ông Vũ Hồng Thanh, có ý kiến cho rằng, dự án có nhiều nút giao liên thông, lưu lượng rất lớn.
Các tuyến cao tốc được thiết kế theo vận tốc 100-120 km/giờ, song thực tế tốc độ khai thác chỉ đạt trung bình hoặc thấp như tuyến Nội Bài-Lào Cai, Pháp Vân-Cầu Giẽ chỉ đạt khoảng 80-90 km/giờ; Vành đai 3 Hà Nội chỉ đạt khoảng 60 km/giờ. Do đó, cơ quan thẩm tra đề nghị cân nhắc đầu tư theo thực tế khai thác để tiết giảm tổng mức đầu tư.
Đánh giá kỹ khả năng giải ngân, hấp thụ vốn
Về tiến độ, một số ý kiến cho rằng, dự án sẽ khó bảo đảm tiến độ hoàn thành trong năm 2025. Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị đánh giá bổ sung đầy đủ về khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, nguồn nhân lực, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu, nhất là trong bối cảnh giá xăng dầu đang tăng cao để có giải pháp kịp thời nhằm bảo đảm tính khả thi, hiệu quả.
Đối với dự án đường Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh, sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 75.378 tỷ đồng (vốn đầu tư công); áp dụng một số cơ chế, chính sách đặc biệt cho dự án cần được Quốc hội quyết định.
Do đó, cơ quan thẩm tra khẳng định, việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư dự án là phù hợp quy định của pháp luật.
Về tốc độ thiết kế theo Tờ trình là 80 km/giờ và phương án này được đánh giá là phù hợp quy mô, thực tiễn khai thác và tối ưu tổng mức đầu tư cho dự án.
Về tiến độ hoàn thành các dự án, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng, việc triển khai thực hiện nhiều dự án đường cao tốc cùng một thời gian, trong đó tập trung chủ yếu vào giai đoạn 2022-2025 sẽ cần một nguồn lực rất lớn, sẽ khó bảo đảm tiến độ hoàn thành trong năm 2025.
Do đó, Chính phủ cần đánh giá bổ sung đầy đủ về khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, nguồn nhân lực, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu... để có giải pháp kịp thời nhằm bảo đảm tính khả thi, hiệu quả, tiến độ, chất lượng cho dự án này và các dự án quan trọng khác cùng được triển khai.
Có ý kiến trong Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ việc tính toán sơ bộ tổng mức đầu tư của từng dự án thành phần cũng như toàn bộ dự án, bổ sung, làm rõ hơn về cơ cấu chi phí và suất đầu tư đối với các đoạn của dự án so sánh với các dự án tương tự.
Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ báo cáo, làm rõ để bảo đảm tính đúng, tính đủ các chi phí cho dự án theo quy định.
Về quy mô phân kỳ đầu tư, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng, đề xuất của Chính phủ chưa phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam về đường ô-tô cao tốc, do đó đề nghị thuyết minh thuyết phục hơn về quy mô đầu tư phân kỳ này.
Ngoài ra, rà soát cắt giảm tối đa các nút giao trên toàn tuyến để bảo đảm hiệu quả khai thác, an toàn giao thông và tối ưu tổng mức đầu tư của dự án.
Đặc biệt, về chức năng đường song hành, Thường trực Ủy ban Kinh tế nhận thấy, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn của Việt Nam không có quy định về khái niệm, tiêu chuẩn, quy mô đường song hành.
Trong khi đó, Chính phủ đề xuất quy mô đầu tư đường song hành rất lớn (35-54,5 m), tương đồng với quy mô đường đô thị theo tiêu chuẩn đường đô thị - yêu cầu thiết kế (TXDVN 104 : 2007) về đường đô thị và chủ yếu phục vụ cho việc phát triển không gian đô thị...
Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội có tổng chiều dài khoảng 112,8 km gồm: 103,1 km đường Vành đai 4 và 9,7 km tuyến nối theo hướng cao tốc Nội Bài - Hạ Long qua địa phận: Thành phố Hà Nội (dài 58,2 km); Hưng Yên (dài 19,3 km); Bắc Ninh (dài 25,6 km và tuyến nối 9,7 km).
Dự án đường Vành đai 3 Thành phố Hồ Chí Minh có tổng chiều dài tuyến là 76,34 km (bao gồm: Thành phố Hồ Chí Minh 47,5 km; Đồng Nai 11,26 km; Bình Dương 10,76 km; Long An 6,8 km). Dự án được đầu tư phân kỳ với quy mô 4 làn xe cao tốc hạn chế, tốc độ thiết kế 80 km/giờ với bề rộng mặt cắt ngang là 19,75m và 6 nút giao liên thông hoàn chỉnh giao cắt với đường hiện trạng cộng 4 lối ra vào đường cao tốc.
(Theo Tờ trình của Chính phủ)