Học thuyết khoa học và cách mạng của Mác và được Lê-nin phát triển không chỉ giải phóng giai cấp vô sản mà còn giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng nhân dân lao động và toàn thể loài người. Trên con đường đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lê-nin con đường cách mạng chân chính, con đường cứu nước đúng đắn.
Những năm 20 của thế kỷ 20, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thụ lý luận Mác - Lê-nin, ra sức truyền bá lý luận đó thông qua những luận đề tư tưởng của mình vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, giác ngộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam đấu tranh để giành độc lập, giải phóng dân tộc, giải phóng những người lao động cùng khổ, xây dựng xã hội mới vì nhân dân, vì con người.
Muốn đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc vào trào lưu của cách mạng vô sản, theo lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cần phải nắm vững mục tiêu, bản chất và phương thức tiến hành cuộc cách mạng đó, đặc biệt ở một nước thuộc địa, phong kiến như Việt Nam, như các nước Ðông Dương và cả châu Á nói chung.
Ðược vũ trang bởi chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Ðảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã đề ra Cương lĩnh đầu tiên (1930) nêu rõ mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, tiến tới xã hội cộng sản.
Khi tiếp thụ chủ nghĩa Mác, Nguyễn Ái Quốc ngay từ đầu đã chú trọng vận dụng sáng tạo vào điều kiện của Việt Nam. Người viết: "Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Ðó chưa phải là toàn thể nhân loại" (1). Và Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề phải mở rộng sự nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết Mác vào điều kiện cụ thể của các nước thuộc địa.
Với sự phân tích về thực trạng các giai cấp và đấu tranh giai cấp ở Việt Nam như vậy, Nguyễn Ái Quốc vận dụng học thuyết đấu tranh giai cấp của Mác cho phù hợp với đặc điểm hoàn cảnh Việt Nam là đặt lên hàng đầu mục tiêu, nhiệm vụ giải phóng dân tộc, Ðảng Cộng sản Việt Nam và Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng của Mác và nhất là điều mà Mác và Ăng-ghen đã kêu gọi trong Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản "giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc" (2).
Ðường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Ðảng ta đã được hoạch định và hoàn thiện qua các Nghị quyết Hội nghị Trung ương (11-1939), (11-1940) và (5-1941) và với sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời và khôn khéo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thắng lợi vẻ vang. Tiếp đó, đường lối giải phóng dân tộc, đường lối chiến tranh nhân dân cách mạng của Ðảng và Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn.
Chính chủ nghĩa Mác đã khơi dậy mạnh mẽ động lực dân tộc độc lập và tinh thần yêu nước Việt Nam, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giành độc lập và phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ðảng Cộng sản Việt Nam đã thật sự đại biểu cho tinh thần và sức mạnh của dân tộc trong đó có sức mạnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã bắt đầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, vì vậy Ðảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam vẫn phải tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Năm 1946, trong chuyến đi thăm nước Pháp, khi trả lời nhà báo, trong hoàn cảnh rất phức tạp, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn khẳng định con đường của chủ nghĩa Mác. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác", "Còn khi nào thì chủ nghĩa Các Mác thực hiện được thì tôi không thể trả lời được. Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. Ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ" (3).
Tháng 9-1960 Ðại hội III và tháng 12-1976 Ðại hội IV của Ðảng đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền bắc và cả nước. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã đạt được những thành tựu nhất định, đồng thời cũng bộc lộ những khuyết tật, yếu kém. Ðó cũng chính là những yêu cầu khách quan phải tiến hành đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rõ hơn về chủ nghĩa xã hội và những quy luật khách quan của thời kỳ quá độ.
Ðại hội VI của Ðảng Cộng sản Việt Nam (12-1986) đã hoạch định đường lối đổi mới. Với đường lối phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, với sự đổi mới cơ chế quản lý chuyển dần sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã phát triển, từng bước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng trầm trọng từ cuối những năm 70 và suốt những năm 80 của thế kỷ 20.
Ðại hội VII của Ðảng (6-1991) đã đề ra Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đã nêu lên mô hình của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam gồm sáu đặc trưng. Ðầu những năm 90, với đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, đường lối đối ngoại độc lập tự chủ do Ðảng ta khởi xướng, lãnh đạo và điều hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã vượt qua những thách thức hiểm nghèo do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Ðông Âu đem lại.
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam, phát triển theo đường lối đổi mới của Ðảng Cộng sản, chính là sự phát triển sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và chứng minh giá trị khoa học, tính cách mạng của lý luận, tư tưởng đó.
Trải qua hơn hai mươi năm đổi mới trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, với sự sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đất nước Việt Nam đã tiến những bước dài với những biến đổi sâu sắc, những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử.
Cùng với những thành tựu về tăng trưởng, phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện chính sách xã hội, cải thiện đáng kể đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị và tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, Ðảng và Nhà nước còn đạt được thành tựu quan trọng về lý luận. "Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn" (4)
Sáng tỏ hơn trước hết là về mục tiêu và mô hình của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ðại hội X xác định mô hình tám đặc trưng của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Mác không đưa ra một mô hình chủ nghĩa xã hội, nhưng Mác và Ăng-ghen trong Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản đã đưa ra mười biện pháp thực hiện chủ nghĩa cộng sản áp dụng ở các nước tiên tiến nhất (hiểu là các nước tư bản phát triển cao). Nhưng các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin luôn lưu ý "Trong những nước khác nhau, những biện pháp ấy dĩ nhiên sẽ khác nhau rất nhiều" (5). Ðó là chỉ dẫn hết sức quý báu để cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước không hoàn toàn giống nhau.
Quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng đã làm sáng tỏ hơn những chặng đường, bước đi cụ thể. Ðã hoàn thành chặng đường của thời kỳ quá độ (1996) và đang ở chặng đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước. Cũng cần khẳng định rằng thực tiễn của công cuộc đổi mới đã chứng minh khả năng và nội dung bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.
Trong công cuộc đổi mới, Ðảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và mở rộng quan hệ thương mại với các nước. Ngày 7-11-2006, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Việt Nam cũng kế thừa và phát triển thành quả của cách mạng khoa học, công nghệ trên thế giới.
Cần nhấn mạnh rằng, Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong khi kiên trì xây dựng đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội đã luôn luôn nêu cao bản chất hòa bình, hữu nghị, chủ nghĩa quốc tế cao cả của chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ đối ngoại, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Ðó cũng chính là tư tưởng nhân văn, nhân ái cao cả của Mác, Ăng-ghen, Lê-nin, Hồ Chí Minh phấn đấu vì cuộc sống tốt đẹp của tất cả các dân tộc, của toàn nhân loại.
PGS, TS Nguyễn Trọng Phúc
--------------------
1. Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr 465.
2. Mác - Ăng-ghen, Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội, 1995, tập 4, tr. 623 - 624.
3. Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội, 2000 tập 4, tr. 272.
4. Ðảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, HN, 2006, tr. 68.
5. Mác - Ăng-ghen, Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội, 2002, tập 4, tr 627.