Sáng 15-4, Viện Dinh dưỡng quốc gia – Bộ Y tế đã tổ chức Hội nghị công bố kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc 2019 – 2020.
Điều tra dinh dưỡng quy mô lớn nhất từ trước đến nay
Thứ trưởng Y tế Đỗ Xuân Tuyên nhấn mạnh, tổng Điều tra Dinh dưỡng lần này có quy mô lớn nhất từ trước đến nay ở phạm vi quốc gia với sự tham gia của 22.400 hộ gia đình tại 25 tỉnh, thành phố đại diện cho sáu vùng sinh thái.
Điều tra thực hiện thu thập đồng thời các chỉ số về nhân trắc, vi chất dinh dưỡng, khẩu phẩn ăn cá thể, cũng như thông tin về an ninh lương thực và an toàn vệ sinh thực phẩm.
Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc được tiến hành thường kỳ 10 năm một lần. Năm 2019, Tổng điều tra Dinh dưỡng được tiến hành ngay sau cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở lần thứ 5 (tháng 4-2019).
Cuộc Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc được Viện Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế) triển khai phối hợp với Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và được sự hỗ trợ của nhiều tổ chức quốc tế như UNICEF, FAO, WHO, World Bank, IGN, CDC (Hoa kỳ), Institute of Reseach Development (Pháp), FHI 360 / FHI Solutions (Intake, Alive & Thrive), Dự án INDDEX-Đại học Tufts (Mỹ).
Đánh giá chung về vai trò quan trọng những kết quả của cuộc tổng điều tra, GS, TS Lê Danh Tuyên – Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia đã khẳng định “Cuộc Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc lần này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đánh giá các Mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Dinh dưỡng, giai đoạn 2011-2020 và đưa ra các bằng chứng khoa học nhằm phục vụ cho việc soạn thảo Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng trong giai đoạn tiếp theo”.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở mức trung bình, tăng mạnh tỷ lệ thừa cân, béo phì
Thay mặt đơn vị thực hiện, GS, TS Lê Danh Tuyên, Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia đã công bố một số kết quả chính của Tổng điều tra Dinh dưỡng toàn quốc (2019-2020).
Đầu tiên, về khẩu phần ăn của người dân năm 2020, theo ông Tuyên, năng lượng trung bình trong khẩu phần đạt 2023kcal/người/ngày, tăng nhẹ so với mức năng lượng 1925kcal/ người/ngày năm 2010. Cơ cấu sinh năng lượng từ Protein, Lipid, và Glucid (2020) là: 15,8% : 20,2% : 64,0% (% so với tổng năng lượng ăn vào), cơ cấu này được coi là cân đối theo khuyến nghị cho người Việt Nam (2016).
Mức ăn rau quả của người dân đã tăng bình quân đầu người nhưng mức tiêu thụ này mới chỉ đạt khoảng 66,4% - 77,4% so với nhu cầu khuyến nghị của Tháp Dinh dưỡng cho người trưởng thành. Mức tiêu thụ thịt tăng nhanh trong đó khu vực thành phố tiêu thụ cao hơn, ở mức 155,3g/người/ngày (năm 2020).
Mức tiêu thụ gạo có xu hướng giảm. Tại các trường học ở thành phố có xu hướng tăng tiêu thụ các loại nước ngọt và thức ăn nhanh.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi (chiều cao/tuổi) ở trẻ em dưới năm tuổi trên toàn quốc là 19,6% (mức <20%) được xếp vào mức trung bình theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới. Như vậy, tiếp nối kỳ tích giảm suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em dưới năm tuổi xuống còn 19,9% vào năm 2008 (tức là Việt Nam đã về đích trước bảy năm so với chỉ tiêu mà Mục tiêu Thiên niên kỷ - MDGs - đặt ra đến năm 2015), thì đến nay Việt Nam đang trên đà đạt được Mục tiêu Dinh dưỡng toàn cầu (giảm 40% SDD thấp còi trẻ em đến năm 2025). Tuy nhiên, vẫn còn sự chênh lệch giữa các vùng miền về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi, ở các vùng nông thôn và miền núi tỷ lệ này còn ở mức cao.
Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em tuổi học đường (5-19 tuổi) còn 14,8% (năm 2010 tỷ lệ này là 23,4%). Rất đáng lưu ý là tỷ lệ thừa cân, béo phì tăng từ 8,5% năm 2010 lên thành 19% năm 2020, trong đó tỷ lệ thừa cân béo phì khu vực thành thị là 26,8%, nông thôn là 18,3% và miền núi là 6,9%.
Chiều cao thay đổi mạnh ở nhóm 18 tuổi
Theo kết quả Tổng điều tra dinh dưỡng toàn quốc 2019 – 2020, chiều cao của người Việt đã có sự thay đổi mạnh ở nhóm thanh niên 18 tuổi.
Năm 2020, nhóm thanh niên nam đạt 168,1cm, tăng 3,7 cm so với năm 2010 (164,4cm), nhóm thanh niên nữ đạt 156,2cm, tăng 1,4 cm so với năm 2010 (154,8cm).
Cải thiện rõ rệt tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng
Theo tổng điều tra, đến năm 2020 đã có sự cải thiện rõ rệt về tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng. Tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng và thiếu máu đã ở mức nhẹ về ý nghĩa sức khỏe cộng đồng (riêng phụ nữ có thai tỷ lệ thiếu máu ở mức trung bình). Giảm tỷ lệ thiếu vitamin A tiền lâm sàng ở trẻ em 6-59 tháng (2010 - 2020).
Trên toàn quốc, tỷ lệ thiếu kẽm ở trẻ em 6-59 tháng tuổi giảm xuống 58,0%, ở phụ nữ có thai giảm xuống 63,5% nhưng vẫn ở mức ý nghĩa sức khỏe cộng đồng nặng theo đánh giá của Tổ chức Y tế thế giới.
Tỷ lệ bú sữa mẹ hoàn toàn trong sáu tháng đầu có sự cải thiện đáng kể, tăng từ 19,6% (năm 2010) lên 45,4% (năm 2020); trong đó ở khu vực thành thị tỷ lệ này là 55,7%, nông thôn là 40,3% và nông thôn miền núi là 42,7%.
Tỷ lệ người dân có hiểu biết và thực hành đúng về an toàn thực phẩm có cải thiện rõ rệt: 35,8% số người trả lời có kiến thức tốt; 55,6% có kiến thức trung bình và chỉ 8,6% có kiến thức kém.
Về xử lý ngộ độc thực phẩm, có 78% số người trả lời lựa chọn đưa người bệnh đến cơ sở y tế để điều trị so với 44,9% năm 2010. Đặc biệt, tỷ lệ người dân được tiếp cận với nguồn thông tin chính thống về an toàn thực phẩm cũng tăng gấp hai lần so với điều tra năm 2010.