Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc - bài học cho công cuộc bảo vệ chủ quyền đất nước

Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân hai nước Việt Nam và Cam-pu-chia có chung khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do để hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, thịnh vượng. Thế nhưng, ngay sau khi lên cầm quyền vào tháng 4-1975, tập đoàn Pôn Pốt đã phản bội lại nhân dân Cam-pu-chia, phản bội lợi ích dân tộc, thi hành hàng loạt chính sách đối nội, đối ngoại cực kỳ phản động, hiếu chiến và tàn bạo.

Ảnh: TTXVN
Ảnh: TTXVN

Ở trong nước, chúng tước đoạt quyền tự do, dân chủ của nhân dân, biến họ trở thành người nô lệ; thi hành chính sách diệt chủng đối với trí thức, tôn giáo, người dân tộc thiểu số, Việt kiều..., giết hại người vô tội, đặt dân tộc Cam-pu-chia bên bờ diệt vong và đe dọa nghiêm trọng an ninh của các nước trên bán đảo Đông Dương.

Được các thế lực phản động giật dây, giúp sức, tập đoàn Pôn Pốt đã thay đổi thái độ với Việt Nam, ra sức xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh Việt Nam, kích động hằn thù dân tộc, đòi hoạch định lại biên giới, coi Việt Nam là “kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp”. Từ năm 1975 đến 1978, chúng mở nhiều cuộc tiến công xâm lấn, đánh chiếm các đảo, biên giới nước ta với quy mô, tần suất ngày một gia tăng, gây hàng loạt cuộc thảm sát đẫm máu đối với nhân dân ta dọc biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia. Hành động của tập đoàn Pôn Pốt đã xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm nghiêm trọng luật pháp quốc tế, gây tổn hại cho mối quan hệ giữa hai nước. Cuối năm 1978, chúng đã huy động 10 sư đoàn cùng nhiều loại vũ khí, trang bị, kỹ thuật về biên giới Tây Nam Việt Nam, chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công xâm lược nước ta. Trước tình hình đó, đầu tháng 12-1978, Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư thông qua quyết tâm chiến lược đánh đuổi tập đoàn Pôn Pốt để bảo vệ cuộc sống hòa bình của nhân dân ta. Bằng các đòn phản công, tiến công quyết liệt, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đánh đuổi quân Pôn Pốt ra khỏi lãnh thổ của Tổ quốc. Tiếp đó, đáp lại đề nghị khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, Quân tình nguyện Việt Nam đã bất chấp mọi gian khổ, hy sinh, phối hợp chặt chẽ với lực lượng vũ trang Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, mở cuộc tổng tiến công giải phóng thủ đô Phnôm Pênh và toàn bộ đất nước Cam-pu-chia.

Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã đập tan âm mưu, thủ đoạn thâm độc của tập đoàn Pôn Pốt và các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; cứu giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, chặn đứng mưu đồ chia rẽ mối quan hệ đoàn kết truyền thống của ba nước Đông Dương: Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia. Đây là thắng lợi to lớn của nhân dân Cam-pu-chia, đồng thời là thắng lợi của tinh thần quốc tế cao cả, với sự giúp đỡ vô tư, chí nghĩa, chí tình của Đảng, Nhà nước, nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ đây, quan hệ Việt Nam - Cam-pu-chia chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ phát triển hữu nghị và hợp tác toàn diện giữa hai nước dựa trên nguyên tắc hòa bình, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, góp phần giữ vững hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.

Chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc đã để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Một là, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn xâm lược của kẻ thù

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, chưa có điều kiện để củng cố, tăng cường một cách tốt nhất các tuyến phòng thủ biên giới. Khi tập đoàn Pôn Pốt đưa quân sang xâm lược nước ta, thời gian đầu, quân và dân ta gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức lực lượng, phương tiện phản công, vì đây là đối tượng tác chiến mới rất nguy hiểm và tàn bạo. Sau khi nắm chắc tình hình, xác định đúng nguồn gốc, nguyên nhân, mục tiêu, lực lượng và thủ đoạn gây chiến tranh của kẻ thù, Đảng ta đã đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu chính trị của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và thực hiện nhiệm vụ quốc tế giúp bạn Cam-pu-chia rất đúng đắn, sáng tạo.

Ngày nay, để đất nước không bị động, bất ngờ, kịp thời đối phó hiệu quả với mọi tình huống, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sớm phát hiện, nhận rõ kẻ thù; đánh giá đúng đối tượng, đối tác của cách mạng và đối tượng tác chiến của Quân đội; chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng đánh bại các kiểu chiến tranh xâm lược, lấn chiếm biên giới, biển, đảo, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả đường lối, chính sách quân sự, quốc phòng của Đảng, nhất là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia. Toàn quân, nhất là các đơn vị đóng quân ở vùng biên giới, biển, đảo, phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu. Cơ quan quân sự địa phương các cấp phải phối hợp với lực lượng công an, biên phòng tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo công tác quân sự, quốc phòng và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên từng địa bàn.

Hai là, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững mạnh, nhất là ở những địa bàn chiến lược, trọng điểm, biên giới, biển, đảo Xây dựng các lực lượng, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc là một trong những nguyên nhân cơ bản bảo đảm thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và cùng quân dân Cam-pu-chia chiến thắng chế độ diệt chủng. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta cần tiếp tục xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, tạo sức mạnh tổng hợp của đất nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn chặn nguy cơ chiến tranh, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức và tạo thế chủ động cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc. Chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; bảo đảm an toàn thông tin mạng; kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh; chú trọng phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, củng cố niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tạo nền tảng xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa.

Ba là, chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu ngày càng cao Trong cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nhờ phát huy cao độ nhân tố chính trị - tinh thần, sáng tạo trong tổ chức lực lượng, xây dựng thế trận và cách đánh, lực lượng vũ trang ta, nòng cốt là Quân đội nhân dân đã đánh bại các cuộc tiến công xâm lược của kẻ thù, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế cao cả.

Trong tình hình mới, sự nghiệp xây dựng Quân đội đang đặt ra những yêu cầu cao hơn. Trước hết, phải tập trung xây dựng vững mạnh về chính trị, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng, đấu tranh phản bác những quan điểm, tư tưởng sai trái, củng cố vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, trong Quân đội. Chăm lo xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân đội với nhân dân; quan hệ đoàn kết, thống nhất trong nội bộ; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao kỷ luật tự giác nghiêm minh; xây dựng tinh thần quốc tế cao cả, “giúp bạn là mình tự giúp mình”...

Tích cực rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân đội theo Kết luận số 16-KL/TW ngày 7-7-2017 của Bộ Chính trị và triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Quân đội đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; tập trung xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh; nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy, chấp hành pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội. Thực hiện có hiệu quả Nghị quyết T.Ư 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”.

Bốn là, nhạy bén nắm bắt tình hình thế giới, khu vực, tăng cường hợp tác, đối ngoại quốc phòng với các nước, nhất là các nước láng giềng. Ta tiến hành cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và giúp nhân dân Cam-pu-chia trong điều kiện nước ta bị bao vây cấm vận từ nhiều phía, nhiều nước chưa hiểu đúng tính chất chính nghĩa và thiện chí của Việt Nam. Để giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh này, cùng với chủ trương phát huy cao độ sức mạnh nội lực, tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, Đảng, Nhà nước ta hết sức coi trọng và không ngừng tăng cường, củng cố đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh quốc tế, nội lực với ngoại lực tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ thù, giữ vững nền độc lập dân tộc.

Ngày nay, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó dự báo, đòi hỏi chúng ta phải luôn bám sát tình hình, đánh giá đúng cục diện quan hệ quốc tế, đề ra đường lối, chính sách phù hợp để bảo vệ Tổ quốc. Chủ động nắm bắt, dự báo được các xu hướng trong quan hệ quốc tế, khu vực, nhất là sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn; dành ưu tiên cho việc củng cố quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước láng giềng. Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc phòng song phương và đa phương nhưng phải có trọng điểm, ưu tiên những đối tác có tầm quan trọng chiến lược; tăng cường, đổi mới quan hệ quốc phòng với các nước láng giềng, các nước bạn bè truyền thống, các nước ASEAN, nâng cao hiệu quả hợp tác trong các cơ chế hợp tác quốc phòng do ASEAN giữ vai trò chủ đạo; coi trọng quan hệ với các nước lớn, các đối tác chiến lược, nhằm củng cố lòng tin chiến lược, sự hiểu biết lẫn nhau để đẩy mạnh hợp tác; tích cực tham gia các hoạt động quốc tế một cách có trách nhiệm, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chủ trương không liên minh quân sự, không dựa vào nước này để chống lại nước khác, không để nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam. Kiên trì, kiên quyết đấu tranh giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; sẵn sàng thực hiện quyền tự vệ chính đáng khi chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc bị xâm phạm.

Kỷ niệm 40 năm chiến thắng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc là dịp để chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc; tự hào, biết ơn công lao và sự hy sinh to lớn của các thế hệ cha anh, đồng thời nhận thức sâu sắc hơn về giá trị lịch sử và hiện thực của nó trong bối cảnh mới của cách mạng. Trên cơ sở đó, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tiếp tục “chung sức, đồng lòng”, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành tốt Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới.