Từ đầu thế kỷ 20, Mỹ liên tiếp dính líu các cuộc xung đột quân sự. Trong khi các chính trị gia, quan chức Chính phủ và giới truyền thông Mỹ hô hào ủng hộ những khái niệm "dân chủ" và "tự do", nhằm bào chữa cho ý đồ chiến tranh của họ, thì binh sĩ Mỹ sử dụng tất cả các loại vũ khí chết người để đạt bằng được mục tiêu. Thế nên, không có gì phải ngạc nhiên khi quân đội Mỹ phạm nhiều tội ác dã man đối với dân thường không vũ trang ở khắp nơi trên thế giới.
Những hành động ghê tởm nhất của quân đội Mỹ phải kể đến là: ném hai quả bom nguyên tử xuống Nhật Bản; ném bom hủy diệt xuống thành phố Dresden của Ðức; ném bom đập thủy điện ở Hàn Quốc; sử dụng đạn urani làm nghèo ở Iraq... Nhưng hành động tồi tệ nhất, bất chấp luật pháp quốc tế và dư luận thế giới là Washington tiến hành chiến tranh hóa học khi can thiệp quân sự ở Việt Nam.
Trong suốt một thập kỷ, từ năm 1961 đến 1971, các quan chức cấp cao chính quyền Mỹ khăng khăng bác bỏ việc tiến công bằng hóa học của họ gây hại cho con người và môi trường ở Việt Nam. Ông Giôn S.Pho-xtơ, giám đốc Cục Nghiên cứu và Kỹ thuật quốc phòng lập luận, cơ quan này của Mỹ "luôn tin chắc rằng chất độc diệt cỏ sẽ không gây tác động tiêu cực lâu dài cho con người và môi trường ở miền nam Việt Nam". Ðể đáp lại những cảnh báo về tác hại lâu dài của cuộc chiến tranh hóa học, Washington đã tiến hành một vài nghiên cứu khoa học, nhưng kết quả hoặc đã bị giấu đi, hoặc nếu công bố ra công luận thì khẳng định không gây tác hại. Tuy nhiên, Mỹ đã buộc phải chấm dứt phương thức chiến tranh tàn ác đó sau khi Ðại hội đồng LHQ thông qua nghị quyết ngày 16-12-1969, tuyên bố rằng Nghị định thư Giơ-ne-vơ năm 1925 nghiêm cấm sử dụng các chất hóa học độc hại không chỉ cho con người, mà cả cho động và thực vật.
Cuộc chiến tranh của Mỹ: không gì có thể có biện minh cho những hành động man rợ
Ngay từ đầu, chính sách chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam đã nhấn mạnh hành động ném bom hủy diệt, tái định cư bắt buộc và sử dụng chất hóa học phá hoại rừng và mùa màng. Hay nói ngắn gọn, chiến lược của Mỹ là hủy diệt nhân lực và môi trường sinh thái tự nhiên của Việt Nam. Ðối với chiến tranh hóa học, cần phải nhấn mạnh rằng, cả chính quyền Mỹ và Anh đã tiến hành nghiên cứu vũ khí hóa học trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi đàn áp phong trào nổi dậy ở Malaysia những năm 50 của thế kỷ trước, Anh là quốc gia đầu tiên trên thế giới sử dụng chất độc diệt cỏ vào các mục đích chiến tranh.
Tuy nhiên, chiến tranh hóa học của Mỹ ở Việt Nam mới là cuộc chiến tranh hóa học lớn nhất từ trước tới nay. Bắt đầu từ năm 1961, cuộc chiến tranh hóa học phát triển thành một chiến dịch rộng khắp vào năm 1969 và chấm dứt năm 1971... Tổng cộng đã có 72 triệu lít chất độc chứa 55 triệu kg chất diệt cỏ được rải xuống các khu vực này.
Nguy hiểm cho người và môi trường
Năm 1969, các kết quả nghiên cứu về dioxin đã được công bố. Năm năm sau (1964), Viện ung thư quốc gia Mỹ đã giao Phòng thí nghiệm nghiên cứu gien sinh học tìm hiểu các cấu tạo thành phần hóa học và tác hại nhiều mặt của loại chất độc này. Kết quả một nghiên cứu đưa ra năm 1966 cho biết, một lượng nhỏ 2,4-D, thậm chí một lượng rất nhỏ 2,4,5-T cũng gây ra hiện tượng khuyết tật bẩm sinh cho chuột. Ðáng tiếc là kết quả của nghiên cứu này đã bị giữ bí mật trong suốt ba năm. Khi được hỏi lý do gì khiến nghiên cứu quan trọng này bị giấu giếm, Nhà trắng giải thích rằng, việc công bố kết quả nghiên cứu có thể làm gia tăng phong trào phản chiến và những chỉ trích của quốc tế nhằm vào cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ.
Tất nhiên, chính quyền Mỹ không đứng một mình khi giấu giếm tác hại chết người của chất độc dioxin. Chính quyền miền nam Việt Nam đã đóng cửa tòa báo Tin Sáng khi báo này đưa thông tin về hiện tượng thai nhi dị tật ở làng Tân Hội. Ba tờ báo khác cũng bị đóng cửa sau khi đăng những thông tin tương tự.
Mặc dù ngoan cố khẳng định rằng, hàm lượng dioxin trong các nghiên cứu cao hơn rất nhiều so với đã sử dụng ở Việt Nam, nhưng các quan chức của Lầu năm góc cũng không thể bác bỏ sự nguy hiểm nghiêm trọng của nó. Phải đến ngày 15-4-1970, khi ba cơ quan chính phủ của Mỹ tuyên bố chấm dứt sử dụng các loại chất độc diệt cỏ có chứa 2,4,5-T, Lầu năm góc mới buộc phải tạm thời ngừng sử dụng chất độc da cam ở Việt Nam.
Nếu nói đến tính nguy hiểm của cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ đối với môi trường, cần xem xét ba nhóm thực vật sau: rừng rậm nhiệt đới, rừng ngập mặn ven biển và cây trồng nông nghiệp.
Thứ nhất, xét về khía cạnh kinh tế chất hóa học rải xuống rừng Việt Nam đã phá hoại khoảng 20 triệu m3 gỗ thương phẩm. Bên cạnh đó, khi cây bị ngấm chất hóa học, lá rụng và phân hủy, khiến đất không thể giữ được chất dinh dưỡng. Sự phá hủy môi trường còn thể hiện qua việc các loài cây chết làm tăng quá trình xói mòn đất. Thêm vào đó, do động vật trong các rừng nhiệt đới phụ thuộc nhiều vào các tầng thực vật bên trên, trong khi các lớp thực vật này bị chất độc hóa học phá hủy, nên rõ ràng cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ gây hại lớn cho các loài động vật hoang dã.
Thứ hai, đối với các loại rừng ngập mặn ven biển, vùng đệm giữa biển và đất liền giúp ổn định đường bờ biển, do hiện tượng bồi bờ biển, các loài tràm có tác dụng bảo vệ đất trước những tác động của gió biển, sóng và thủy triều. Tuy nhiên, do chất hóa học của Mỹ, cả thức ăn và tầng rừng bảo vệ đều bị phá hủy, tác động xấu không chỉ tới con người mà tới cả các sinh vật rừng.
Thứ ba, trong thời gian chiến tranh, quân đội Mỹ đã sử dụng chính sách quân sự phá hoại cây trồng trên diện rộng ở miền nam Việt Nam. Ước tính chất độc hóa học của Mỹ đã gây tác hại cho khoảng 230 nghìn ha đất nông nghiệp, phá hoại hơn 300 nghìn tấn lương thực. Khoảng 30% diện tích rừng cao-su của Việt Nam bị chết do chất độc hóa học.
Tóm lại, cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ đã phá hủy mùa màng trên quy mô lớn, gây hại nghiêm trọng tới hệ sinh thái đất liền và ven biển, cũng như gây ra hàng loạt vấn đề về sức khỏe cho những người bị nhiễm chất độc này. Thiệt hại cho môi trường phải kể tới hàng triệu cây rừng và thảm thực vật bị chết; xâm thực kéo dài tại các khu rừng ngập mặn; đất xói mòn lan rộng và mất dinh dưỡng; động vật hoang dã bị tiêu diệt do môi trường sinh thái bị phá hủy; mất nguồn cá nước ngọt... Hơn hết vẫn là nỗi đau của hàng triệu người Việt Nam, cả nam và nữ, người già và trẻ em.
Chấm dứt các cuộc tiến công hóa học của Mỹ
Như đã đề cập ở phần trên, LHQ đã thông qua một nghị quyết tuyên bố rằng, Nghị định thư Giơ-ne-vơ cấm sử dụng trong chiến tranh chất độc hóa học phá hoại động thực vật, chứ không chỉ đối với con người. Ðồng thời cộng đồng khoa học gây áp lực đối với chính quyền Mỹ không sử dụng chất độc diệt cỏ. Báo cáo của các nhà chức trách y tế khắp thế giới đã chỉ ra hàng loạt những vụ việc liên quan cuộc chiến tranh hóa học của Mỹ. Năm 1969, báo chí nam Việt Nam đã đưa tin về các trường hợp dị tật bẩm sinh từ năm 1967, khi Mỹ bắt đầu chiến dịch rải chất độc da cam xuống khu vực này. Cần phải nhấn mạnh rằng, những năm 1967 - 1969 là giai đoạn đỉnh cao của các cuộc tiến công bằng chất độc hóa học của Mỹ, với khối lượng chiếm tới ba phần tư lượng chất độc hóa học rải xuống các vùng ở Việt Nam.
Ðể đánh lạc hướng dư luận chỉ trích, chính quyền Mỹ đã không công nhận rằng áp dụng luật pháp quốc tế vào việc Ðại hội đồng LHQ xem xét vấn đề này là không thích hợp. Bộ Quốc phòng Mỹ đã hợp đồng với Viện Khoa học quốc gia để điều tra. Viện này sau đó chỉ định một ủy ban gồm 17 thành viên, do ông An-tôn Lang (thuộc ÐH bang Michigan) và ông Lê Văn Thời (Chủ tịch Hội đồng Khoa học quốc gia miền nam Việt Nam) đứng đầu. Vậy là, chắc chắn "ủy ban" này đưa ra kết luận không phát hiện bằng chứng liên quan dị tật bẩm sinh và các tác hại trực tiếp tới sức khỏe con người.
Ðến khi Hiệp hội Vì sự tiến bộ khoa học của Mỹ (AAAS) thông qua một nghị quyết thừa nhận rằng, việc sử dụng chất độc hóa học và sinh học có thể làm thay đổi môi trường, gây tác hại lâu dài cho con người và hệ sinh thái, Bộ Quốc phòng Mỹ lại phối hợp Viên nghiên cứu Mit-oet (MRI) tiến hành một cuộc nghiên cứu khác. Một lần nữa, MRI lại đưa ra kết luận rằng không có nguyên nhân phải lo lắng tới các tác hại lâu dài.
Tuy nhiên, cuối cùng, khi buộc phải chấm dứt chiến tranh hóa học ở Việt Nam, thì Mỹ gặp phải vấn đề đau đầu là tiêu hủy hơn chín triệu lít chất độc hóa học. Sau khi đã bí mật sử dụng một phần trong số các kho chất độc da cam ở Việt Nam trong suốt năm 1971, tháng 4-1972, Mỹ buộc phải chuyển số chất độc diệt cỏ còn lại ở Việt Nam tới một hòn đảo xa xôi ở Thái Bình Dương để tiêu hủy.
Tội ác chiến tranh không thể quên
"Mặc dù các trường hợp quái thai hay dị tật bẩm sinh ở Việt Nam đã được người Việt Nam thông báo cho người Mỹ với cả thái độ thân thiện và không thân thiện, những ghi chép minh chứng cho thông báo này vẫn chưa được thực hiện do điều kiện chiến tranh không cho phép tiến hành các nghiên cứu để điều tra các thông báo đó. Từ sau khi chiến tranh kết thúc, đã có rất ít các cuộc thảo luận về sự hủy hoại môi trường ở Việt Nam. Thiệt hại đã rõ ràng và thái độ của Mỹ là cãi trắng rằng, bây giờ đó là vấn đề của người Việt Nam".
Ðọc nhận xét trên, không ai có thể tha thứ cho những kẻ không hề ân hận về những tội ác bẩn thỉu của mình. Cũng do những gì họ đã làm, đang làm, mà hàng triệu người trên khắp thế giới phải chịu đựng bệnh tật và nỗi đau đớn về thể xác.
Bất chấp những biến động thế giới đã trải qua, chúng ta vẫn hy vọng trong tương lai gần, những kẻ tội phạm chiến tranh và đồng bọn phải bị pháp luật trừng trị. Một dấu hiệu khả quan là với Nghị định thư Giơ-ne-vơ năm 1925, cộng đồng quốc tế đã khẳng định, việc sử dụng vũ khí hóa học là bất hợp pháp. Hơn nữa, những tác hại chết người, mà đã được chứng minh qua cuộc chiến tranh ở Việt Nam, là hoàn toàn không thể chấp nhận được nếu soi vào Công ước về thay đổi môi trường năm 1977.