Cuộc tranh luận gần đây về bản dịch bài thơ Nam quốc sơn hà tương truyền của Lý Thường Kiệt với các ý kiến đa dạng nhưng không kém phức tạp dễ làm liên tưởng đến “vụ án ga-li-lê”. Thực ra, sự ồn ào quanh bản dịch bài thơ liên quan một câu chuyện rất cũ, vì bản dịch bài thơ Nam quốc sơn hà trong sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, được đưa vào sử dụng ổn định gần 15 năm và đang sắp đến chu kỳ thay đổi nội dung sách giáo khoa theo chủ trương đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo. Bắt đầu từ chuyện phóng viên của tờ báo điện tử nọ “phát hiện” bản dịch bài thơ chữ Hán đưa vào sách giáo khoa khác với bản dịch (thực chất là khuyết danh - đến nay vẫn chưa tìm được người dịch) vốn lưu truyền và được nhiều người thuộc, nhớ. Sau khi tập hợp một số ý kiến của cư dân mạng và lại nhận được câu trả lời thiếu hàm lượng chuyên môn của một vị lãnh đạo ở Bộ Giáo dục và Đào tạo (có tham gia biên soạn sách giáo khoa, nhưng không chịu trách nhiệm phần Ngữ văn), “phát hiện” này đã làm bùng lên một vụ xì-căng-đan với sự tham gia của rất nhiều cư dân mạng, trong đó có cả một số người có bằng cấp, học vấn (nhưng không thuộc lĩnh vực chuyên môn có liên quan như văn học cổ, chương trình phổ thông). Phần lớn ý kiến tập trung khẳng định bản dịch mới đưa vào sách giáo khoa là “lạ”, là “dở”, nghĩa là đều dựa vào sự cảm tính. Những ý kiến này được tiếp sức bởi các suy luận chụp mũ rằng những người soạn sách giáo khoa “vẽ việc để thủ lợi” và càng bùng lên thêm khi một vị đạo diễn đã gắn luôn sự việc với âm mưu thôn tính văn hóa của ngoại bang. Những lời rủa xả (không thể dùng từ nào khác) bất chấp lý lẽ được mặc sức tuôn ra, đổ lên đầu các học giả khả kính, những người soạn sách giáo khoa và khảo cứu văn bản Nam quốc sơn hà hàng chục năm nay. Ý kiến của các chuyên gia đã thật sự bị nhấn chìm. Có người còn hô hào việc đem các vị chủ biên và các vị dịch giả ra “trảm”!
“Vụ án” bản dịch thơ Nam quốc sơn hà, thêm một lần nữa cho thấy một số "vấn nạn" không đáng có đang hiện diện trong đời sống xã hội. Trước hết, đó là sự thiếu vắng một văn hóa tranh luận lành mạnh. Nếu nói theo cách của ngành pháp lý thì đây là một “vụ án” mà mọi trình tự pháp lý đều có sai phạm, dẫn đến việc người bị “xét xử” sẽ bị xét xử không công bằng. Ngay từ đầu, một loạt tiêu chí đánh giá (giống như các quy định luật pháp) đã bị bỏ qua. Người ta quên rằng đây là một văn bản văn học cổ, viết bằng chữ Hán, đã dịch sang tiếng Việt (chứ không phải là tiếng Nôm như một sử gia được coi là “nổi tiếng” đã phát biểu) và được đưa vào sách giáo khoa phổ thông. Chính vì vậy, bản dịch, nếu được xem xét, đánh giá phải dựa trên các yêu cầu, đặc điểm một bản dịch (nghĩa là phải đánh giá từ góc độ lý thuyết dịch thuật) của một văn bản văn học cổ (nghĩa là có các đặc trưng riêng khác văn học hiện đại), và là một bài giảng trong sách giáo khoa (nghĩa là phải xét đến các nguyên tắc biên soạn sách giáo khoa, cũng như tinh thần, triết lý của sách giáo khoa, hệ thống giáo dục). Việc đối chiếu với “lẽ phải thông thường”, với tiêu chí “êm tai”, hoặc tình cảm của ai đó tuyệt nhiên không giá trị. Bài giảng mới được biên soạn đã tính tới tính phức tạp của văn bản (thể hiện trong phần tiểu dẫn nhấn mạnh tính chất khuyết danh của bài thơ), tăng cường khoa học hóa (trong việc chấp nhận loại bỏ bản dịch không thể xác định được nguồn gốc) và khuyến khích tinh thần tự học, độc lập tư duy của học sinh (cung cấp ba bản dịch khác nhau, và đều là bản dịch có chất lượng của những bậc túc Nho, những người thông hiểu Hán học và cổ văn). Theo một quy trình thông thường, cuộc điều tra phải hướng đến những đương sự trực tiếp liên can đến vụ việc. Vậy mà ngay từ đầu, các đương sự trực tiếp, người làm sách giáo khoa, người in sách giáo khoa đã hoàn toàn không được hỏi ý kiến. Thay vào đó là "dàn đồng ca" của rất nhiều người thiếu, hoặc yếu về chuyên môn. Điều đó khiến cho cuộc tranh luận đã trở thành một cuộc “đấu tố”, và một “vấn đề giả” được đưa ra và được mạng xã hội tiếp tay: khẳng định mình trong tư thế “người hùng” bằng cách hạ nhục ai đó. Từ sự kiện này, chúng ta có quyền đặt câu hỏi về năng lực văn hóa của một số người làm báo khi việc tối thiểu là tìm hiểu ngọn ngành vấn đề qua tư liệu học thuật rất sẵn trên internet đã bị họ bỏ qua. Tất nhiên, ở đây không thể không nói đến trách nhiệm của NXB Giáo dục, cơ sở xuất bản duy nhất được phép in sách giáo khoa, và đáng tiếc là họ lại giữ thái độ im lặng, mà đây không phải là lần đầu.
Một câu chuyện khác là Truyện Thúy Kiều mới tái bản. Sự ồn ào liên quan tới một ấn bản Kiều nhưng lại không liên quan nội dung, chất lượng, hay tái bản có biên tập tử tế không (điều tôi ngờ ít người quan tâm) mà liên quan đến… cái bìa sách! Mà lại là cái bìa sách theo tôi là có ý tưởng, đẹp và được làm chu đáo, nếu so với các ấn bản Kiều đang lưu hành và rộng ra, với vô vàn bìa sách đã in ở Việt Nam. Kịch bản vụ ồn ào này cũng diễn ra theo trình tự: bắt đầu từ ý kiến cảm tính của người ít nhiều tiếng tăm, nhà báo biến thành một phát hiện, tập hợp một "dàn đồng ca" gồm độc giả không chuyên phụ họa, rồi đồng loạt “ném đá”. Tuy nhiên, sự việc này có may hơn là đương sự có điều kiện để giải trình. Nghĩa là, nếu nói theo ngôn từ của ngành luật thì trình tự tố tụng ít nhiều còn được tôn trọng. Vậy, cần phải nói gì về vụ bê bối này? Trước hết phải nói ngay rằng, các kết án như: “Kiều… lõa lồ trên bìa sách”, “thô tục”, dùng tranh khỏa thân làm bìa sách kinh điển,… là thiếu hiểu biết. Chưa kể tới thắc mắc kiểu như tại sao không phải là Truyện Kiều mà lại là… Truyện Thúy Kiều?! Tại sao cái gì liên quan đến khỏa thân là bị kết án “thô tục”, trái thuần phong mỹ tục, thiếu trang nghiêm? Vậy chẳng lẽ người ta không biết một phần vô cùng lớn trong di sản văn hóa nhân loại gồm đủ kiểu tranh, tượng có đề tài khỏa thân? Hơn nữa, cứ xem tranh hứng dừa, đánh ghen là thấy cha ông không hề xa lạ với điều này. Bức họa của ông Lê Văn Đệ vẽ Kiều không hề lõa lồ hơn mấy bức tranh dân gian kể trên. Thứ nữa, việc thể hiện Kiều trong bức tranh của Lê Văn Đệ không hề có sự thô tục hay… khiêu dâm! Kiều đứng, suối tóc che phần lớn thân thể chỉ lộ một đường nét, một khuôn ngực. Thế đứng đó không có sự “ong bướm, lả lơi”, không phô bày, và theo tôi đây là bức tranh đẹp. Họa sĩ sử dụng phong cách tranh khắc gỗ, chỉ có nét và mảng, gần tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, không quá tinh xảo như tranh khắc gỗ phương Tây, nhưng vẫn có ý thức về viễn cận và bút pháp tả chân ở một mức độ vừa phải chứ không sa vào ước lệ như tranh dân gian. Cũng nên lưu ý, ông Đệ là một họa sĩ tốt nghiệp mỹ thuật cả ở Việt Nam và Pháp, nắm chắc kỹ thuật hội họa tả chân của sơn dầu Tây phương. Đây là một trong nỗ lực dân tộc hóa hội họa bác học, bức tranh toát lên một vẻ Việt Nam, thô mộc và ấm áp, dung dị. Nó là một nỗ lực kiến tạo căn tính dân tộc trong một loại hình nghệ thuật ngoại nhập. Vậy thì việc dùng một bức tranh cũ có giá trị làm bìa cho một ấn bản Kiều tái bản do hai nhà học giả uyên thâm khảo đính là rất đáng quý. Nó gợi cái không khí một thời, “nhất khí” cho toàn bộ ấn phẩm. Chưa kể tới các phụ lục được đưa vào cuốn sách này cũng đều của những họa sư có tiếng thời trước. Rất có giá trị!
Theo tôi, từ góc độ tiếp nhận văn hóa thì các sự kiện nêu trên cho thấy điều đáng quan ngại về chuẩn thẩm mỹ của một bộ phận công chúng. Họ đánh giá hiện tượng nghệ thuật theo những cái chuẩn mơ hồ về thuần phong mỹ tục, và thiếu hiểu biết. Vì thiếu hiểu biết nên mới không hiểu được ngôn ngữ nghệ thuật của bức tranh. Họ hời hợt đến mức không cần xem chú thích trong sách để tìm hiểu xem đó là tranh của ai, người đó có vị trí thế nào trong lịch sử hội họa dân tộc. Tóm lại, họ tiếp nhận một sản phẩm văn hóa bằng các cảm nghĩ thông thường, bằng “lẽ phải thông thường”. Đáng ngại là chuẩn thẩm mỹ đó dường như là khá phổ biến ở một số người. Đó là điều nguy hại, vì nó ngăn cản sự xuất hiện các giá trị mới, chân chính và có khả năng làm đa dạng, sâu sắc thêm đời sống văn hóa. Bởi cái mới, bao giờ cũng là một sự thách thức các định kiến.
Có thể nói, các sự kiện nêu trên một lần nữa cho thấy tình trạng ô nhiễm đến mức báo động trong môi trường văn hóa của chúng ta, đồng thời còn cho thấy mặt trái của truyền thông đại chúng (tôi nhấn mạnh, trong sự phân biệt với truyền thông đúng nghĩa) khi văn hóa tranh biện, khi lý tính, khi tinh thần tôn trọng lẫn nhau (nền tảng quan trọng của xã hội dân chủ, văn minh) bị một số người chà đạp, chỉ để thỏa mãn “cái tôi” của mình. Và hiện tượng này cho thấy nguy cơ có thật về việc những người xảo ngôn có thể lợi dụng lẽ phải thông thường, tâm lý đám đông để kích động, mạt sát người khác, đưa tới những hậu quả khôn lường.