Phát biểu tại phiên thảo luận của Quốc hội ngày 5-11 về các vấn đề liên quan tới thiên tai, bão lũ thời gian gần đây, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho biết trong bốn cơn bão vừa qua thì cơn bão số 9 là mạnh nhất trong 20 năm qua, hết sức nguy hiểm. Cùng với đó là trạng thái vùng áp suất duy trì rất lâu ở miền trung đã tạo ra lượng mưa vượt qua các chỉ số đo lịch sử, trong đó có những ngày lượng mưa như ở Quảng Nam lên đến trên 500mm/ngày.
“Chúng ta tưởng tượng là nửa mét nước mỗi ngày, và có những nơi kéo dài trong suốt giai đoạn đó. Tổng lượng mưa được tính toán vượt qua con số từ 2.000 đến 4.000 mm. Lượng mưa đấy có thể nói là trời đổ nước xuống chứ không phải là mưa nữa”, Bộ trưởng Trần Hồng Hà nói.
Theo Bộ trưởng, đây là một vấn đề lịch sử nên chưa có số liệu để tính toán được. Số liệu hết sức khách quan ở các vùng sạt lở này (các khu vực như ở khu kiểm lâm 67 Phong Điền, Cha Lo, Minh Hóa; khu vực Binh đoàn 337 Hướng Hóa, Trà Leng, Trà Vân, Nam Trà My, Quảng Nam; Phước Lộc, Phước Sơn; vùng sạt lở Rào Trăng 3) cho thấy đây là những khu vực ở độ cao từ 300 đến 900m.
“Nên nếu chúng ta kết luận là do thủy điện thì ở đây chưa có thủy điện, và thủy điện Trà Leng 3 hiện nay chưa xây dựng. Tôi muốn nói là chúng ta không nên đưa ra những suy đoán mà phải dựa trên cơ sở khoa học”, Bộ trưởng nêu quan điểm.
Bộ trưởng cho biết, yếu tố chung là toàn bộ khu vực này nằm trong khu vực đứt gãy địa chất và các đứt gãy này thời gian vừa qua đã có sự cà sát và tạo ra độ phong hóa từ 9 đến 16m. Cũng quá trình đó thì độ phong hóa này đã tạo ra đất, cát, sét, sỏi với độ gắn kết rất thấp và nằm trên địa hình đồi núi dốc, trọng lực trượt và độ dốc của sông, suối đều theo hình chữ V, vì thế luôn luôn nằm trong một động thái địa chất kiến tạo, đó là đứt gãy do tai biến địa chất đã hình thành.
“Quá trình địa chất đó luôn làm cho đất đá bị nát vụn, cộng thêm vấn đề ngoại sinh là một lượng mưa lớn, người ta tính trong vòng khoảng 5 đến 10 ngày mà lượng mưa 100mm thì tất cả những khu vực này đều dẫn đến nguy cơ sạt lở”, Bộ trưởng lý giải.
Bên cạnh đó, theo Bộ trưởng, lượng mưa mỗi ngày 500mm cũng làm gia tăng trọng lực trượt của đất và phá vỡ sự gắn kết của các mảng trượt.
“Sự kết hợp của các yếu tố cấu thành tổ hợp các thiên tai, từ sạt lở đất nhỏ gắn với đồi núi dốc và các sông suối hẹp tạo nên những biển hồ nước và kích hoạt các hoạt động địa chất nội sinh đó là hoạt động trượt đã xảy ra sạt lở đất. Qua số liệu ban đầu chúng tôi có đánh giá như vậy”, Bộ trưởng cho biết.
Cũng theo Bộ trưởng, về vai trò của các hồ chứa tại các tỉnh miền trung mặc dù không có khả năng để cắt lũ nhưng có sự điều tiết rất nhịp nhàng, chặt chẽ và khoa học để thực hiện hai chức năng là tích nước phát điện và cung cấp nước cho mùa khô. Tuy không được thiết kế quy mô và dung lượng để cắt được đỉnh lũ, nhưng các hồ chứa này có thể cắt giảm được từ 30% đến 70% nguy cơ và độ ngập ở hạ lưu.
“Chúng ta bổ sung được nước trong mùa cạn từ 30 đến 50%. Vào mùa khô hạn, lượng nước trên các dòng sông thường mất đi khoảng 80- 90%, đặc biệt là miền trung. Nhu cầu tất yếu, chúng ta cần phải có các hồ chứa và các hồ chứa đều đặt mục tiêu này lên hàng đầu”, Bộ trưởng cho biết.
Theo Bộ trưởng, từ năm 2009, Đảng và Nhà nước đã quan tâm và chỉ đạo tiến hành hai chương trình nghiên cứu. Một là về dự báo lũ ống, lũ quét các tỉnh miền núi, Tây Nguyên và miền trung. Chương trình thứ hai triển khai từ năm 2012 liên quan đến điều tra tai biến địa chất nhằm dự báo, cảnh báo sạt lở ở các khu vực vùng núi, Tây Nguyên, Tây Bắc và miền trung.
“Chúng ta cần phải có nghiên cứu độc lập, lúc này còn quá sớm nhưng cho thấy rằng hiện trạng của các điểm vừa rồi xảy ra là tổ hợp các dạng thiên tai”, Bộ trưởng nói.
Theo báo cáo của Ủy ban về rủi ro thiên tai của Liên hợp quốc, cường độ cũng như tần suất xảy ra hiện tượng khí hậu cực đoan trong 40 năm qua đã tăng bốn lần, trong đó bão và lũ chiếm khoảng 40%.
Giai đoạn 1980-1999 chỉ có 4.212 các thiên tai được xác định là thiên tai lớn, nhưng đến giai đoạn 2000-2019 đã có trên 7.348 thiên tai, trong đó loại hình thiên tai xảy ra nhiều nhất là lũ với 3.254 lượt, chiếm 44%, tiếp đó là bão với 2.043 lượt, chiếm 28%.
Việt Nam đứng thứ 7 trong số những quốc gia có cực đoan và rủi ro thiên tai cao nhất, đứng thứ 16 trong số các nước liên quan đến khí hậu cực đoan.