Không thể nói trời không trong hơn
Và mắt em xanh khác ngày thường
Khi đoàn quân kéo về mùa thu ấy
Nhịp trống rung ba mươi sáu phố phường...
Nhạc sĩ Nguyễn Thành (1930-2002) quê gốc Kiện Khê, Hà Nam nhưng sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Bố là một nhạc công kèn đồng. Ðang là học sinh trung học trong thành, cuốn theo hùng khí của thủ đô kháng chiến, anh đã sớm đầu quân vào Ðoàn Quân Tiên phong (Sư đoàn 308).
Trên con đường hành quân lên Tây Bắc, ông được chứng kiến cảnh đồn bốt giặc mọc lô nhô như nấm độc, với "dây thép gai đâm nát trời chiều", thấm thêm cảnh khổ đau của đất nước bị quân thù chiếm đóng. Nhưng trên đường Tây tiến dằng dặc ấy, không chỉ có khổ đau, còn có sự hùng vĩ của "quân đi màu lá dữ oai hùm", của núi non vút ngàn trùng xa. Trên đường hành quân, cán bộ, chiến sĩ 308 còn có một vinh dự, một kỷ niệm không bao giờ quên: được Bác Hồ đến thăm và động viên. Bao nhiêu ấn tượng, bao nhiêu cảm xúc chất chứa trong lòng, giục giã người chiến sĩ trẻ phải viết một cái gì đó về mình, về cuộc hành quân và đất nước...
Một đêm, nghỉ dưới chân đèo Khau Vác, với cảm xúc trào dâng, ông đã viết Qua miền Tây Bắc trên một vỏ bao thuốc lá. Tự lẩm nhẩm hát đi hát lại, dường vẫn không ưng ý, ông vo tròn tờ giấy vứt xuống đất cạnh đống lửa đang cháy ...
Sáng dậy, trong tiếng đàn đệm của Vũ Hướng là Trần Chất đang say sưa hát “Qua miền Tây Bắc”. Nguyễn Thành lặng đi, không tin tai mình đang nghe bài hát đúng lòng mình và hay đến thế. Ôi, ngọn lửa "nhân hậu" đã không liếm mất vỏ bao thuốc lá, trừ lại cho nền âm nhạc Việt Nam một bài hát trứ danh!
Ðó là năm 1951. “Qua miền Tây Bắc” nhanh chóng được phổ biến trong sư đoàn. Sau này được cả mặt trận hát và là một nguồn sức mạnh của quân dân ta trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ cùng với “Hò kéo pháo” của Hoàng Vân, “Anh vẫn hành quân” của Ðỗ Nhuận.
Nguyễn Thành có mặt trong hàng quân về tiếp quản thủ đô 10-10-1954.
Nhà thơ Tạ Hữu Yên sinh năm 1927 tại Hoa Lư cố đô và cũng như Nguyễn Thành, là học sinh Hà Nội, là người lính vệ quốc trong hai cuộc kháng chiến. Ông là tác giả thơ của nhiều ca khúc nổi tiếng như “Ðất nước” (Phạm Minh Tuấn), “Bài ca thanh niên” (Thanh Phúc), “Ðôi dép Bác Hồ” (Văn An) và “Cảm xúc tháng mười” (Nguyễn Thành)...
Năm 1974, Tạ Hữu Yên và Nguyễn Thành cùng công tác với nhau ở Phòng phát thanh binh vận thuộc Tổng cục Chính trị QÐND Việt Nam. Ðã 20 năm trôi qua nhưng không khí ngày giải phóng thủ đô vẫn mới nguyên trong ký ức của đại úy Tạ Hữu Yên và thượng úy Nguyễn Thành. Lúc đó lại đang có cuộc thi viết về đề tài Hà Nội. Hai chàng sĩ quan trẻ rủ nhau cùng sáng tác một bài hát chào mừng ngày giải phóng Thủ đô.
Ðể lấy cảm hứng, hai anh đã trở lên Cầu Giấy, cửa ô mà 20 năm trước Trung đoàn Thủ đô đã theo lối ấy trở về tiếp quản quê hương. Và trong bước chân trở về ấy, họ nhìn thấy mẹ đứng ở hàng đầu rưng rưng nước mắt, nhìn thấy nao nức cờ hoa, nghe nhịp trống rung ba mươi sáu phố phường mà nhớ đêm rút qua gầm cầu vượt sông Hồng với những thương binh, với niềm đau chưa trắng nợ anh hùng khi phía sau là tiếng súng truy kích của giặc Pháp, nhớ những người trai Hà Nội mãi không về... Quá khứ và hiện tại. Khải hoàn và bi thương. Chiến tranh và hòa bình. Người lính và người lính. Mẹ và em. Và Hà Nội - Thăng Long nghìn năm trận mạc lại thanh bình như chưa hề có bóng giặc, chưa hề nghe còi báo động trên nóc Nhà hát Lớn... Cứ đi, cứ đan xen trong bước chân hồi tưởng. Buổi chiều, đến trước Hồ Gươm, mùa thu Hồ Gươm dâng lên trời một mầu xanh bất tuyệt.
Sau Hiệp định Paris (1-1973), hòa bình trở lại ở miền bắc, những cô gái Hà Nội lại mặc đồ sáng mầu, thiết tha những dáng Kiều thơm bên dáng liễu. Ðó là mắt nhìn thấy, là hình ảnh trực tiếp. Lời cảm thán cất lên tự lòng. Câu thơ đầu tiên trào ra tự nhiên và chính xác Không thể nói trời không trong hơn, Và mắt em xanh khác ngày thường...
Ðêm đó, trên một căn gác hai trong tập thể quân nhân thành Hà Nội, Tạ Hữu Yên đã làm xong trọn vẹn bài thơ, hầu như chữ gọi chữ tuôn chảy, không phải dụng công sửa chữa. Vì đó là sự thật, là tình cảm tha thiết ấp ủ bấy nay:
Mẹ đứng hàng đầu rưng rưng nước mắt,
Xốn xang mẹ thầm gọi các con,
Anh chiến sĩ mến thương nhìn mẹ,
Nghe niềm vui ấm cả tâm hồn...
Ðêm, cái đêm rút qua gầm cầu,
Anh đã hẹn ngày mai trở lại,
Sóng sông Hồng vỗ bờ hát mãi,
Ðỏ niềm tin là khúc khải hoàn ca...
Ðó là đêm cuối cùng tháng 9, bắt sang ngày tháng 10. Tạ Hữu Yên không thể nào ngủ được. Chưa bao giờ anh lại mong đến giờ làm việc, mong Nguyễn Thành đến thế. Nguyễn Thành nhận được bài thơ, cả ngày không nói gì. Ðêm ấy, trên gác 5 khu tập thể Thành Công, có một ngọn đèn thức khuya hơn mọi hôm, bầu trời đêm rung lên trong tiếng đàn piano thánh thót: la mi đố xon xi xi xi.... Rồi hai tác giả cùng đàn hát với nhau trong niềm hạnh phúc, tự hào về thủ đô Hà Nội. Thắng rồi! Bài hát được gửi ngay đến ban tổ chức cuộc thi và giành giải A cùng với tác phẩm của Huy Thục, phổ thơ Phan Thị Thanh Nhàn. Kiều Hưng là nghệ sĩ đầu tiên hát trên sóng Cảm xúc tháng mười.
Giải thưởng năm đó, nhà thơ Tạ Hữu Yên nhớ lại, gồm hai mét lụa, một hộp thuốc lá Trung Quốc và sáu trăm đồng. Với thu nhập và mức sống thời bao cấp, đó là một khoản tiền không nhỏ. Nhưng phần thưởng lớn nhất đó là bài hát đã đi vào lòng công chúng. Nhạc sĩ Nguyễn Thành đã mất. Nhà thơ Tạ Hữu Yên năm nay đã hơn tám mươi nhưng mỗi khi nghe cô bé, cậu bé mới vỡ giọng, bâng khuâng cất lên tiếng hát "Không thể nói trời không trong hơn, Và mắt em xanh khác ngày thường"... ông lại thấy lòng mình trẻ lại, trẻ như Thủ đô nghìn tuổi vẫn xanh biếc đôi mươi...