Bông hồng của một vị chân tu

Hòa thượng Thích Thanh Chính.
Hòa thượng Thích Thanh Chính.

Ðối với một người làm báo, mỗi lần có phỏng vấn ai, thì đều tìm hiểu thêm, đọc thêm về tiểu sử cũng như lĩnh vực hoạt động của con người đó và viết sẵn ra giấy những câu hỏi. Nhưng lần này, những kiến thức sách vở về lịch sử tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng được học ở giảng đường đều trở nên khô cứng trước những câu chuyện giản dị mà cảm động của Hòa thượng Thích Thanh Chỉnh.

Tính chất "đời" của những câu chuyện này khiến tôi mới hiểu rằng tại sao đạo Phật trải bao thăng trầm, biến cố của lịch sử hơn 2.500 năm đến nay vẫn tồn tại và ngày càng phát triển, chiếm được nhân tâm của hàng triệu người trên khắp hành tinh, không phân biệt sắc tộc, giàu nghèo, thậm chí song hành cùng các học thuyết khoa học khác trong việc lý giải nguồn gốc của vũ trụ, sự sống và những thực thể cơ bản của thế giới như không gian, thời gian, vật chất. Chẳng phải vô lý mà nhà vật lý học thiên tài Elbert Einstein đã từng nói: "Nếu có một tôn giáo nào tương thích với những nhu cầu khoa học tiên tiến thì đó chính là Phật giáo".

Trả lời cho câu hỏi, tại sao cụ lại chọn con đường của Nhà Phật, Hòa thượng Thích Thanh Chỉnh thong thả kể lại ký ức của gần 80 năm trước: "Khi đó tôi mới mười tuổi. Một lần nhà hàng xóm có đám và người ta mời một vị sư của ngôi chùa xa tới làm lễ. Ðám trẻ con chúng tôi ngồi rìa chung quanh để xem hành lễ. Vô tình, tôi lại ngồi gần sát phía sau nhà sư. Nhà đông, chật chội nên rất nóng. Bỗng, nhà sư quay lại phía tôi và bảo tôi quạt hộ cho đỡ bức. Ðược quạt cho nhà sư, tôi rất lấy làm hãnh diện với đám bạn cùng lứa. Ðến cuối buổi lễ, nhà sư quay lại cảm ơn tôi và hỏi có thích đi tu không? Tôi lúc đó cũng chưa hiểu biết gì nhưng chắc do cái "duyên" đã định nên trả lời ngay: Có ạ! Làm lễ xong nhà sư lại ra đi. Tôi cũng quên chuyện đó. Nhưng một năm sau, sư ông quay lại làng và hỏi thăm cái thằng bé đã quạt cho ông năm nào. Thế là tôi bước chân vào cửa Phật".

Ðôi khi, chúng ta cũng quên bẵng đi một điều rằng, các bậc tu hành cũng có cha có mẹ, anh em ruột thịt. Song, sâu đậm nhất, cũng như đối với mỗi chúng ta, đó là hình ảnh của người Mẹ. Hình ảnh đó đi xuyên suốt cuộc đời chúng ta với bao kỷ niệm vui buồn, thậm chí pha chút ân hận, khiến một vị Hòa thượng đã 90 tuổi, vừa kể lại vừa lau những giọt nước mắt cứ trào ra.

Cuộc nói chuyện của chúng tôi phải dừng ít phút để Hòa thượng bình tâm trở lại khi ký ức của năm xưa bỗng dội trở về:

"Gia đình tôi có sáu anh em trai. Tôi là thứ ba. Các em trai tôi đều đã hy sinh trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tu hành thời Pháp thuộc rất khổ. Ngôi chùa đầu tiên mà tôi ở có tới 20 mẫu ruộng. Phải thuê hai lực điền để làm, nhưng trong những lúc không có họ, thì chính các nhà sư chúng tôi phải trực tiếp cày bừa.

Cuộc sống rất kham khổ, cái quần, cái áo lành lặn cũng không có mà mặc. Thầy của chúng tôi vừa nuôi chúng tôi vừa thử thách lòng kiên trì, chịu khó của các tiểu. Thầy bắt hai chú tiểu chúng tôi đi tát nước bằng gàu sòng giữa cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông tháng Chạp.

Bà mẹ tôi đi hỏi thăm các chùa, tìm mãi mới thấy nơi con ở. Người làm trong chùa chỉ ra chỗ chúng tôi đang tát nước và mẹ nhận ra tôi. Bà cụ nhìn thấy quần áo trên người tôi vá chằng vá đụp liền bật khóc mà hỏi: Áo quần đâu mà không mặc? Tôi trả lời mẹ: Quần áo chỉ có thế thôi!

Mẹ tôi liền cởi ngay cái áo bông đang mặc trên người và mặc ngay cho tôi. Gọi là áo bông cho oai thế thôi chứ đã cũ rích, làm bằng vải gai sần sùi, bông cũng lòi cả ra ngoài. Khi trở về chùa, lúc mang nước lên hầu sư Thầy, cụ trông thấy hỏi ngay: Con mặc áo của ai thế? Tôi trả lời: Áo mẹ con cho con ạ. Sư Thầy mắng: Cởi ngay ra trả lại, con muốn mẹ con chết rét à?

Lúc chiều tối, khi ngồi nấu cám lợn sau chùa, mẹ tôi vừa khóc vừa bảo tôi: Mẹ tưởng con đi tu thế nào, cái quần cái áo không có mà mặc, thôi về nhà đi con... Hòa thượng kể đến đây thì dừng lại, tháo kính xuống và đưa vạt áo cà sa lên lau nước mắt. Rất nhiều người tu hành đã không chịu được thử thách, rẽ lối sang ngang. Ở ngoài đời cũng như trước con đường của Ðức Phật, muốn làm được việc lớn phải cần được một chữ Nhẫn".

Người già thường rất thích nói về quá khứ. Ðôi khi, quá khứ còn sống động hơn cả cuộc sống hiện tại ngay trước mắt họ. Nhưng, ở Hòa thượng Thích Thanh Chỉnh lại khác.

Cụ chuyển từ quá khứ về hiện tại rất linh hoạt và cụ cảm nhận cuộc sống đang diễn ra chung quanh tinh tế như một nghệ sĩ:

"Lần đầu tiên trong đời tôi được chiêm ngưỡng những bông tuyết trắng tinh rơi từ trời cao xuống, từ phía Ðức Phật, và đáp nhè nhẹ lên lớp mái ngói vảy cá còn tươi roi rói, lên tháp chuông của một ngôi chùa Việt.

Tôi đứng lặng đi và xúc động khi nghe tiếng chuông chùa mà tôi đã nghe hơn 80 năm nay, nhưng hình như trong không gian của một miền đất xa lạ, tiếng chuông nghe lạ lắm, nó tác động thẳng vào tâm thức khiến trái tim tôi đập gấp gáp hơn.

Tiếng chuông là giọng nói, là khẩu khí của một ngôi chùa. Nó như thỉnh lên rằng tại một miền đất xa xôi hàng vạn dặm đã có những người con đang làm một việc lớn vì đại nghĩa.

Ðúng là những người góp công sức và xây ngôi chùa này tốt nhân duyên lắm, chắc là kiếp trước đã có tu nhiều.

 
Tam quan ngôi chùa Việt ở Khác-cốp.

Tôi đã đi hầu hết tất cả các chùa trong nước, thì ngôi chùa Trúc Lâm Kharkiv (Ukraine) là một trong những chùa to và đẹp nhất. Công sức, tiền của bỏ ra đây mới lớn làm sao.

Tôi đã gặp gỡ với cánh thợ mộc được tuyển từ bảy tỉnh khác nhau ở miền bắc sang. Họ đông lắm, đâu như hơn trăm người. Toàn thợ giỏi chuyên xây chùa khắp nơi trong nước.

Ðây là một công trình tâm linh được xây dựng bằng bàn tay, khối óc của những người thợ Việt và Ukraine. Những người thợ bản địa năng nổ điều khiển các phương tiện kỹ thuật như máy xúc, máy ủi, máy đóng cọc, hoặc công việc xây thô; còn thợ Việt Nam thực hiện những chi tiết đòi hỏi khéo tay như làm mái cong, đục hoa văn rồng phượng.

Tôi có một mong muốn là ngôi chùa này sẽ trở thành một trung tâm Phật giáo lớn ở SNG đồng thời sẽ trở thành giảng đường để nghiên cứu các môn như Phật học, Ðông phương học và Việt Nam học cho tất cả những ai thành tâm mong muốn...

Vì khâm phục ý chí và lòng thành của Phật tử Phạm Nhật Vượng, người có công lớn làm nên ngôi chùa này, tôi có sáng tác một bài thơ Nôm theo lối Ðường luật để tặng”.

Vừa nói Hòa thượng vừa rút trong túi ra tờ giấy gấp làm tư. Bàn tay run run của cụ mở rộng trang giấy trên bàn, đọc trong khói hương, giọng đọc trầm ấm của cụ làm cho mỗi ý, mỗi ý mỗi từ bỗng hóa lung linh, tình người bay lên phổ vào vạn vật:

Việt kiều hải ngoại nhớ quê hương
Dựng giữa châu Âu một Phật đường
Tụng nguyện hướng tâm về Tổ quốc
Thỉnh tăng tu niệm Phật mười phương
Cầu cho đất nước càng hưng thịnh
Tế độ muôn dân hưởng cát tường
Phúc quả viên thành xin kính chúc
Mừng nay chính pháp được hoằng dương.

Lúc tôi xin phép được chụp ảnh để đăng cùng bài viết, Hòa thượng chỉ tay về phía lọ hoa cắm một bông hồng lớn mầu huyết dụ trên chiếc bàn gần cửa sổ, nói: Thầy muốn được chụp với bông hoa này.

Có thể bạn quan tâm