Virus bại liệt thuộc nhóm virus đường ruột được thải qua phân nên đường lây chính là đường tiêu hóa.Bệnh truyền trực tiếp hoặc gián tiếp từ người này sang người khác qua tay bẩn, đồ chơi, thức ăn, nước bị ô nhiễm bởi phân có virus. Ruồi, nhặng, gián cũng có thể là tác nhân trung gian truyền bệnh.
Bệnh gây tổn thương một số tế bào và một số vùng của hệ thần kinh trung ương dẫn đến không điều khiển được cơ tương ứng, cơ không cử động được và teo dẫn đến liệt mềm.
Biểu hiện của bệnh:
Tùy vào vị trí và mức độ nặng nhẹ của tổn thương mà bệnh biểu hiện khác nhau.
Thể ẩn: Chiếm 90-95%, chỉ có thể phát hiện nhờ các xét nghiệm.
Thể nhẹ: Không phân biệt được thể này với bệnh nhiễm virus khác, chẩn đoán nhờ vào xét nghiệm.
Biểu hiện bệnh không điển hình: sốt, mệt mỏi, đau họng, ho, sổ mũi, trẻ có thể đau bụng, nôn, táo bón hoặc tiêu chảy. Bệnh tự hồi phục sau 3-7 ngày.
Thể nặng (tổn thương thần kinh)
- Thể màng não: Có biểu hiện như thể nhẹ nhưng nhức đầu, nôn nhiều hơn, xuất hiện dấu hiệu màng não: cứng gáy,... trong thể này không có dấu hiệu liệt, bệnh tiến triển tốt.
- Thể liệt: Trước khi có biểu hiện liệt (giai đoạn tiền liệt) bệnh nhân cũng có biểu hiện giống hai thể trên, cảm giác đau tăng, đau dọc theo dãy và rễ thần kinh khi đè tại cột sống, cột sống và gáy cứng kèm theo sốt. Một số trường hợp có biểu hiện liệt mà không qua giai đoạn tiền liệt: liệt xảy ra đột ngột, thường khi trẻ hết sốt, đôi khi liệt xảy ra khi đang sốt cao. Liệt tiến triển rất nhanh, nếu đã liệt mà vẫn còn sốt thì bệnh có thể tiến triển nặng hơn.
Đặc điểm của liệt trong bệnh bại liệt:
- Liệt mềm: Cơ nhão do trương lực cơ giảm.
- Liệt không đối xứng hai bên: Ngay trong một chi liệt các nhóm cơ yếu, liệt không đồng đều.
Bệnh nhân vẫn còn cảm giác đau.
- Cơ thường bị teo sớm, giai đoạn đầu khó phát hiện teo cơ nếu trẻ bụ bẫm hoặc bị phù.
Tùy theo vị trí tổn thương có thể chia ra các dạng liệt sau:
- Liệt thể tủy sống: Tổn thương vùng tủy cổ dẫn đến liệt chi trên, liệt cơ cổ, vai, cơ hoành, tổn thương vùng tủy ngực gây liệt cơ liên sườn, cơ bụng. Nếu tổn thương cả hai vị trí trên dễ dẫn đến suy hô hấp, tổn thương vùng tủy thắt lưng (hay gặp) gây liệt cơ chi dưới. Đôi khi hệ thống thần kinh thực vật cũng bị tổn thương đưa đến rối loạn vận mạch, chi lạnh, vã mồ hôi...
- Liệt thể hành tủy: Đây là dạng gây tử vong cao ít khi xảy ra đơn thuần, thường phối hợp với thể tủy sống kèm liệt chi. Rối loạn nhịp thở, nhịp tim, huyết áp thường không ổn định, rối loạn vận mạch. Liệt dây thần kinh sọ não đưa đến liệt cơ mặt, họng... bệnh nhân nói giọng mũi, khàn tiếng, dễ sặc và khó nuốt, ứ đọng đờm rãi gây ngạt thở. Nếu liệt thể phối hợp tủy sống – hành tủy có biểu hiện cả hai dạng trên.
- Liệt thể não: Giống như viêm não gây ra bởi virus khác, bệnh nhân lú lẫn, rối loạn tri giác, có khi co giật.
Bệnh có thể gây biến chứng tại tim, đường hô hấp, tiêu hóa, tiết niệu... Di chứng có thể từ nhẹ đến nặng gây tàn tật suốt đời, nhóm cơ không thể hồi phục bị teo nhanh, gân cơ co kéo làm chân, tay, cột sống bị biến dạng, xương của chi liệt cũng phát triển chậm và ngắn hơn.
Điều trị:
Bệnh không có thuốc điều trị đặc hiệu mà chủ yếu là điều trị triệu chứng.
- Bại liệt thể nhẹ: Cần nghỉ ngơi, tránh chạy nhảy, làm việc quá sức.
- Thể viêm màng não: Điều trị triệu chứng.
- Thể tủy sống: Nghỉ ngơi trên giường cứng, giảm đau, uống nhiều nước tránh đọng cặn sỏi đường niệu do nằm lâu, tránh táo bón.
- Thể tủy sống cao thể hành tủy.
Hút đờm rãi, thở ôxy, mở khí quản khi cần thiết. Sử dụng kháng sinh thích hợp khi có nhiễm khuẩn phổi và nhiễm khuẩn tiết niệu.
Khi thể trạng ổn định nên tập vật lý trị liệu càng sớm càng tốt, thường sau khi hết sốt và ngưng liệt vài ngày. Việc tập luyện giúp cho những cơ còn tốt khỏe hơn, nếu nằm bất động lâu các cơ này sẽ bị teo vì không vận động.
Phòng bệnh: Phòng bệnh bại liệt bằng cách cho trẻ uống vaccine bại liệt. Hiện nay vaccine Sabin được sử dụng trong chương trình tiêm chủng mở rộng.
Lịch uống vaccine bại liệt:
- Lần 1: Khi trẻ đủ 2 tháng tuổi.
- Lần 2: Khi trẻ đủ 3 tháng tuổi.
- Lần 3: Khi trẻ đủ 4 tháng tuổi.
Cho trẻ uống vaccine bại liệt trong chiến dịch đối với trẻ dưới 5 tuổi, cho trẻ đi uống vaccine bại liệt trong chiến dịch uống vaccine bại liệt bổ sung.