Aslem, thuốc cho người nghèo mắc bệnh ung thư


Cố giáo sư Tôn Thất Tùng là người mở đầu cho việc sử dụng Aslem (khi đó được một nhà khoa học Việt kiều cung cấp dưới tên là LHI-Lạc Hồng 1) để điều trị ung thư gan tiên phát sau mổ tại Bệnh viện Việt - Đức vào năm 1975. Trong vòng hai mươi năm sau đó, hơn 1.000 bệnh nhân điều trị theo cách của GS Tùng, nhiều người sống thêm được 5 năm, thậm chí tới đến 9 năm. Đó là quãng thời gian cực kỳ quý báu vì các bệnh nhân ung thư thời gian sống thêm sau khi phát hiện được bệnh trên lâm sàng chỉ còn được tính bằng tháng. Thừa hưởng những kết quả do GS Tùng khởi xướng, Viện lao Trung ương, sử dụng Aslem kết hợp với tam thất, vitamin C liều cao điều trị cho những bệnh nhân ung thư phổi. Trong số 31 bệnh nhân được điều trị theo cách trên 60% sống thêm sau mổ 2 năm và 52% sống thêm được 4 năm. Theo dõi 91 bệnh nhân ung thư phổi phẫu thuật và dùng Aslem từ năm 1988 đến năm 1990, bác sĩ Nguyễn Đình Kim nhận thấy, có 11 trường hợp sống trên ba năm.

Liệu pháp miễn dịch sau mổ sẽ giúp cơ thể tiêu diệt nốt những tế bào ung thư còn sót lại, di căn tản mạn ở xa nơi mổ. Trên thế giới phương pháp điều trị kết hợp phẫu thuật -hoá- miễn dịch đã trở thành xu thế áp dụng rộng rãi trong điều trị ung thư. Danh sách các chất kích thích miễn dịch mới tìm thấy ngày một tăng. Chúng có thể có nguồn gốc vi sinh, sinh học, tổng hợp hoá học, thảo mộc. Khi nhập vào Việt Nam, tất cả đều có giá bán cao (một ống Thymogen của Bungari bán với giá 160.000 đồng, còn Im.BCG dù đã sản xuất tại Việt Nam cũng có giá 120.000 đồng/ống). Aslem có giá thấp hơn nhiều, chỉ 10.000 đồng/ống.

Ở Việt Nam, với hệ thực vật phong phú và dựa trên kinh nghiệm sử dụng thuốc đông y, rất nhiều công trình nghiên cứu tìm các chất kích thích miễn dịch đã và đang được tiến hành: Phylamin từ bèo hoa dâu, dịch chiết toàn phần rễ cây nhàu, dịch chiết toàn phần cây lấu, dịch chiết từ vỏ đỗ xanh... nhưng vẫn chưa có chế phẩm nào hoàn chỉnh để áp dụng điều trị. Theo một hướng khác, năm 1979 GS Đặng Hanh Phức đã bán tổng hợp thành công Glycyl Funtumin. Điều này đã tạo ra một bước ngoặt trong việc chủ động nguồn  nguyên liệu để sản xuất Aslem từ trong nước. Tuy vậy, theo cách bán tổng hợp từ Futumin thì vẫn còn phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu từ châu Phi (vì cây chứa Futumin chỉ mọc ở châu Phi). Kế tục công trình của GS Phức, PGS Đào Kim Chi (Đại học Dược Hà Nội) và cộng sự, được sự hợp tác và giúp đỡ của nhiều tổ chức khoa học trong và ngoài nước, đã thành công trong việc tổng hợp toàn phần Glycyl Futumin (GF) từ nguyên liệu cơ bản là Prégnenolon. Nhiều công trình về dược lý nghiên cứu tác dụng của chế phẩm Aslem cũng được tiến hành trong sự hợp tác chặt chẽ của giới y dược học Việt Nam, giữa ĐH Dược với ĐH Y Hà Nội, Bệnh viện Việt - Đức, Viện chống lao Trung ương, Bệnh viện Chợ Rẫy, Viện K... Theo như nhận xét của các nhà lâm sàng, Aslem là thuốc an toàn, không gây tác dụng phụ nguy hiểm. Trong suốt quá trình theo dõi gần 30 năm qua, chưa gặp một trường hợp tai biến nguy hiểm nào do Aslem gây ra.

Từ năm 2002, sau khi Viện Kiểm nghiệm quốc gia thẩm định tiêu chuẩn, Aslem được Cục Quản lý dược cấp số đăng ký lưu hành và Trung tâm khoa học công nghệ Dược thuộc ĐH Dược đã sản xuất Aslem cung cấp cho các cơ sở điều trị có nhu cầu. Thuốc được Bộ Y tế đưa vào danh mục thuốc thiết yếu sử dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh. Mới đây, dự án "Hoàn thiện quy trình sản xuất thuốc tiêm Aslem điều hoà miễn dịch" trong chương trình khoa học và công nghệ phục vụ bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng đã được Bộ Khoa học Công nghệ phê duyệt. Trong vòng 24 tháng, tiến sĩ Kim Chi và các cộng sự sẽ hoàn thiện các thông số kỹ thuật để nâng cấp quy mô tổng hợp Glycyl-funtumin hydroclorid, xây dựng tiêu chuẩn cho nguyên liệu GF.HCL và hoàn thiện quy trình bào chế thuốc tiêm Aslem theo tiêu chuẩn GMP. Điều này bảo đảm nâng cấp chất lượng đồng thời đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng thuốc Aslem trên toàn quốc.

Có thể bạn quan tâm