Trong cả ngày diễn ra Hội thảo, các đại biểu đã tập trung giới thiệu nội dung cơ bản của Luật người cao tuổi, sáu Báo cáo trình bày nghiên cứu tổng quan và đánh giá thực thi chính sách, hoạt động của các cơ sở chăm sóc NCT.
Theo đại diện của Ủy ban Quốc gia về người cao tuổi, Việt Nam sẽ qua giai đoạn dân số vàng và đối mặt với sự già hóa dân số từ thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21. Theo dự báo, tỷ lệ NCT ở nước ta sẽ tăng đột biến từ năm 2010, đạt tỷ lệ 15,45% vào năm 2025 và 28,45% vào năm 2050, vượt tỷ lệ NCT của Thái Lan. Tỷ lệ NCT ở vùng nông thôn tăng nhanh và đạt xấp xỉ với tỷ lệ NCT ở các thành phố lớn đặc biệt là NCT ở vùng Nam Bộ. |
Ngày 23-11-2009, Quốc hội đã thông qua Luật Người cao tuổi bao gồm 6 chương 31 điều, trong đó quy định cụ thể về quyền của NCT. Luật NCT sẽ có hiệu lực thi hành vào năm 2010.
Theo ý kiến chung của các đại biểu trình bày tại Hội thảo, trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến NCT thông qua việc ban hành các văn bản pháp quy nhằm bảo đảm chế độ chính sách với NCT. Hội Người Cao tuổi Việt Nam được thành lập năm 1995 đã giúp cho Nhà nước triển khai nhiều hoạt động về NCT. Để thực hiện các chính sách đối với NCT, Chính phủ đã cấp ngân sách hàng năm cho các mục tiêu xã hội nói chung, trong đó có NCT và cho các mục tiêu trực tiếp đối với NCT. Các chương trình giảm nghèo, xóa nhà tạm, cấp bảo hiểm y tế miễn phí được thực hiện rộng rãi bằng nguồn ngân sách của Nhà nước. Hàng nghìn tỷ đồng được cấp hàng năm cho thực hiện chính sách bảo trợ xã hội cho NCT.
Bên cạnh những thành tựu kể trên, nhiều đại biểu cũng có ý kiến cho rằng, các văn bản pháp quy về NCT còn thiếu đồng bộ, đến nay vẫn chưa có kế hoạch chiến lược. Các chính sách xã hội được hoàn thiện, bổ sung thường xuyên nhưng việc thực thi còn nhiều bất cập.
Theo đại diện Hội y tế công cộng Việt Nam, Luật về người cao tuổi được ban hành chậm hơn nhiều so với các nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, các công trình NCKH tập trung về nghiên cứu dịch vụ y tế, dự phòng, sự hỗ trợ xã hội với NCT, tổ chức NCT và yếu tố giới nhưng lại thiếu các công trình NCKH về CSSK tâm thần, tâm lý, yếu tố sinh học, chỉ định và tuân thủ điều trị lâu dài ở NCT, những nghiên cứu liên quan tới vai trò của người cao tuổi và những đóng góp cho gia đình và xã hội cũng như những gợi ý về việc làm thể nào để người cao tuổi có thể đóng góp nhiều hơn cho xã hội.
Qua nghiên cứu tổng quan cho thấy, NCT thường mắc các bệnh mạn tính với tỷ lệ khá cao như bệnh khớp (53,8%), nhìn kém (51,2%), rối loạn mỡ máu (45%), tim mạch (31,3%), nghe kém (27%), sa sút trí tuệ (4,9%), tiểu đường (5,3%), trầm cảm (5%), và đây là các bệnh cần điều trị lâu dài, chí phí cao. Tỷ lệ NCT bị khuyết tật chức năng hoặc không tự chăm sóc chiếm tỷ lệ khá cao là 63,8%. |
Việt Nam đã có các mô hình cơ sở chăm sóc NCT như Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ NCT RECAS, Trung tâm nuôi dưỡng NCT Từ Liêm, Vĩnh Phúc; các mô hình của Hội LH Phụ nữ Việt Nam là những mô hình đã và đang phát triển có hiệu quả. Ủy ban Quốc gia Người cao tuổi Việt Nam hiện cũng đang thực hiện 2 mô hình thí điểm: Mô hình chăm sóc NCT dựa vào tình nguyện viên ở cộng đồng và mô hình chăm sóc sức khỏe NCT dựa vào thày thuốc tình nguyện tại cộng đồng.
Tuy nhiên, các mô hình cơ sở chăm sóc NCT vẫn tập trung nhiều ở thành phố. Một số mô hình chưa có những tiêu chí đánh giá và hướng dẫn hoạt động. Các cơ sở bảo trợ xã hội đang trong quá trình sắp xếp và tổ chức lại. Rất cần những nghiên cứu sâu nhằm xác định các mô hình, chính sách và cơ chế phù hợp cho việc chăm lo sức khoẻ NCT, động viên họ đóng góp cao nhất cho sự phát triển chung.
Hội thảo có sự tham gia của gần 70 đại biểu đại diện cho Ủy ban quốc gia về người cao tuổi, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Giao thông Vận tải, Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội người cao tuổi, Hội Y tế Công cộng; Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, các viện, trường đại học, bệnh viện; đại diện UBND, ngành Y tế, Lao động thương binh xã hội của một số tỉnh, thành phố; các cơ sở chăm sóc NCT và một số tổ chức quốc tế.