Bài 1: Lời giải cho bài toán năng lượng
Khủng hoảng năng lượng đang diễn ra trên phạm vi khắp toàn cầu và Việt Nam cũng không thể tránh khỏi. Việt Nam là nước nhập khẩu ròng năng lượng từ năm 2015. Giá hàng loạt nhiên liệu như than đá, dầu mỏ, khí đốt liên tục tăng đột biến đang tạo áp lực lớn cản trở đà phục hồi kinh tế sau đại dịch Covid-19 của đất nước. Nghiêm trọng hơn, chúng ta còn phải đối mặt nguy cơ thiếu hụt các nguồn năng lượng thiết yếu như điện hay xăng dầu.
Năng lượng lại là yếu tố đầu vào quan trọng trong mọi hoạt động sản xuất cũng như cuộc sống của người dân. Việc giữ vững an ninh năng lượng là mục tiêu sống còn để bảo đảm tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nghị quyết 55-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng chỉ rõ mục tiêu phải bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung cấp đầy đủ năng lượng ổn định, có chất lượng cao với giá cả hợp lý cho phát triển kinh tế-xã hội nhanh và bền vững.
Nghịch lý vừa thừa, vừa thiếu
“Khuyến khích năng lượng tái tạo là đúng xu thế, nhưng phát triển quá nóng, thiếu đồng bộ cũng để lại rất nhiều băn khoăn”, Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung nhận định khi nhìn lại quá trình bùng nổ của năng lượng tái tạo trong vài năm gần đây.
Thực vậy, sau nhiều năm kêu gọi đầu tư không hiệu quả, nhưng sau khi Quyết định 11/2017/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam được ban hành (ngày 11/4/2017), điện mặt trời đã có chu kỳ phát triển thần tốc và hiện đạt tổng công suất khoảng 16.500MWp (gồm 8.700MW nguồn điện mặt trời trang trại và 7.776MW nguồn điện mặt trời mái nhà), vượt khung 20 lần Quy hoạch điện VII điều chỉnh.
Việt Nam nhờ đó nhanh chóng vươn lên vị trí thứ 8 trong tốp 10 quốc gia có công suất lắp đặt điện mặt trời lớn nhất thế giới (nguồn Visual Capitalist). Cộng thêm 3.890MW điện gió (cũng vượt quy hoạch gần 5 lần), hiện tỷ trọng các nguồn điện năng lượng tái tạo chiếm tới 27% tổng công suất phát cả nước.
Gia tăng đột biến, cộng thêm những hạn chế như tính bất định cao trong vận hành, phân bố chưa phù hợp,… sự bùng nổ của điện năng lượng tái tạo đã gây mất cân bằng cung-cầu miền, tạo sức ép lên lưới truyền tải liên miền (từ miền trung, miền nam ra miền bắc), gây lãng phí, tổn thất và rủi ro vận hành an toàn.
Tình trạng thừa nguồn làm quá tải đường dây hay chênh lệch giữa cao điểm và thấp điểm gây thiếu dự phòng công suất, dẫn đến hệ quả điện năng lượng tái tạo thường xuyên bị giảm phát nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống. Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), trong năm 2020, sản lượng không khai thác được của điện mặt trời khoảng 364 triệu kWh. Năm 2021, sản lượng điện “thừa” từ năng lượng tái tạo tiếp tục tăng vọt, theo một số công bố khoảng 1,68 tỷ kWh, nhưng nhiều chuyên gia cho rằng con số thực tế cao hơn nhiều.
Nghịch lý hơn, trong bối cảnh điện năng lượng tái tạo “thừa” phải cắt giảm, tổng công suất lắp đặt nguồn điện của Việt Nam cũng tăng hơn 145% trong vòng 5 năm từ 2017 đến nay (42.000MW lên 76.620MW), nhưng EVN vẫn cảnh báo khả năng thiếu điện của miền bắc khoảng 1.500-2.400MW trong một số giờ cao điểm hoặc thời tiết cực đoan.
Đồng tình việc khuyến khích điện năng lượng tái tạo là hướng đi đúng để phát triển kinh tế xanh, tuy nhiên Viện sĩ, Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trần Đình Long cũng nhấn mạnh tính thiếu ổn định của các nguồn phát cùng yêu cầu bắt buộc phải có các nguồn điện nền khác đi kèm. Trong Quy hoạch điện VIII đã tính đến việc cân đối thêm các nguồn phát nền cũng như tìm ra tỷ lệ phù hợp hơn cho năng lượng tái tạo để vừa đạt mục tiêu giảm phát thải carbon, vừa bảo đảm cân bằng cung cầu và an toàn vận hành hệ thống.
Bên cạnh đó, cũng cần xử lý hài hòa hơn mối quan hệ giữa điện năng lượng tái tạo và các nguồn điện truyền thống. Thí dụ, khi điện mặt trời đạt công suất phát cao sẽ giảm thủy điện để tích nước, lúc không còn nắng lại xả nước để phát điện. Ngoài ra, cần khuyến khích phát triển thủy điện tích năng để phối hợp điện mặt trời hình thành hệ thống tuần hoàn khép kín. Giá của loại điện này dù đắt hơn thủy điện thông thường, nhưng vẫn rẻ hơn điện than hay tích điện bằng pin.
Đặc biệt, thủy điện tích năng không cần nguồn thủy lực lớn, do đó có thể xây dựng ở nhiều địa điểm và kể cả bên bờ biển. Cũng theo ông Long, kế hoạch phát triển điện hạt nhân tiếp tục được đưa vào Quy hoạch điện VIII nhằm bảo đảm có thêm các nguồn phát nền rẻ và ổn định. Thực tế, thế giới đang có xu thế quay lại coi trọng điện hạt nhân vì đây được coi là nguồn điện sạch, tương đối an toàn do công nghệ cũng như quy trình quản lý ngày càng hoàn thiện, khả năng xảy ra thảm họa là hy hữu. Thậm chí, trong giai đoạn điện hạt nhân bị lên án mạnh mẽ trước đây, nhiều quốc gia vẫn âm thầm phát triển và coi đây là hướng đi khó thay đổi.
“Vì vậy, chúng ta cần có sự cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề này ở cấp lãnh đạo cao nhất. Các cơ quan quy hoạch, tư vấn cần nghiên cứu thấu đáo, tìm ra lý lẽ đầy đủ nhất để tham mưu cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong vấn đề này, đồng thời đưa ra thảo luận công khai hay thậm chí tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Riêng tôi thấy Việt Nam vẫn cần phát triển điện hạt nhân”, chuyên gia về năng lượng này khẳng định.
Cách mạng năng lượng mới
Chưa dừng ở chuyện thiếu điện, từ tháng 1 đến nay, nguồn cung xăng dầu trong nước cũng liên tục phải đối mặt nguy cơ đứt gãy khi Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn đột ngột cắt giảm công suất và ra thông báo ngừng cung cấp sản phẩm trong một khoảng thời gian với lý do thiếu tiền nhập nguyên liệu.
Với tổng vốn đầu tư hơn 9 tỷ USD, công suất đạt 8,4 triệu tấn dầu thô trong giai đoạn đầu và có thể dần nâng lên 10 triệu tấn dầu thô/năm, Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn từng được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam tự chủ nguồn cung xăng dầu. Trong năm 2021, nhà máy này đã sản xuất được 6,7 triệu tấn xăng dầu các loại, giúp giải quyết một phần nhu cầu nội địa (khoảng 34%).
Nhưng vừa bước sang năm 2022, cách hành xử kiểu “ao làng” của nhà máy khi tự ý cắt giảm nguồn cung không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động của doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, mà còn gây tác động xấu tới thị trường và rộng hơn là kìm hãm đà hồi phục của nền kinh tế.
Đến hiện tại, dù Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn vẫn luôn “úp mở” việc công bố mức sản xuất, nhờ nỗ lực của cơ quan quản lý và doanh nghiệp nhập khẩu, nguồn cung xăng dầu sáu tháng đầu năm cơ bản đã được đáp ứng đủ. Tuy nhiên, nguy cơ thiếu xăng dầu vẫn chờ chực bởi Việt Nam chưa chủ động được nguồn cung.
Theo đó, kể cả khi Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn không tự ý cắt giảm công suất, cộng thêm sản lượng khoảng 7 triệu tấn/năm của Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Việt Nam mới tự sản xuất được khoảng 2/3 tổng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước và phần còn lại vẫn phải bù bằng nguồn nhập khẩu. Chính phủ vừa qua đã chỉ đạo Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) nhanh chóng triển khai nghiên cứu, đầu tư xây dựng Tổ hợp dự án lọc hóa dầu mới tại Khu công nghiệp Dầu khí Long Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu) với kỳ vọng có thêm 10 triệu tấn xăng dầu/năm để chủ động hoàn toàn nguồn cung trong nước. Thế nhưng không ít chuyên gia lại cho rằng, cần xem xét kỹ hơn kế hoạch này.
Vì hiện khai thác dầu thô trong nước chỉ đáp ứng được một phần cho sản xuất xăng dầu nội địa và sản lượng ngày càng giảm, nên dù xây thêm nhà máy lọc dầu, Việt Nam vẫn phải lệ thuộc vào nguồn dầu thô nhập khẩu. Rõ ràng, đây là một bài toán lớn, cần được tính toán chi tiết với nhiều tham số như dự báo trữ lượng dầu trong nước, sản lượng khai thác trong ngắn và dài hạn, xu hướng thị trường thế giới,… từ đó làm rõ việc nhập khẩu trực tiếp xăng dầu hay nhập dầu thô về chế biến là có lợi?
Riêng chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh vẫn không đồng tình với phương án xây dựng nhà máy lọc dầu mới trong bối cảnh kinh tế còn khó khăn như hiện nay vì tốn kém, lại không kỳ vọng giải quyết rốt ráo vấn đề chủ động nguồn cung xăng dầu. “Chúng ta nên dành nguồn lực đầu tư các cơ sở dự trữ xăng dầu để khi xảy ra biến động nguồn cung sẽ có đủ dự trữ cùng thời gian để ứng phó”, ông Ánh kiến nghị.
Theo Chủ tịch Hội đồng thành viên PVN Hoàng Quốc Vượng, việc tăng cường dự trữ xăng dầu quốc gia là cần thiết, nhất là khi có những bất ổn trên thế giới ảnh hưởng xấu đến nguồn cung xăng dầu. Tất nhiên, tăng dự trữ cũng dẫn đến tăng chi phí, nhưng cần xem xét trên tổng thể lợi ích quốc gia. Việc tăng dự trữ cần sớm được tổ chức phân tích, đánh giá để có thể điều chỉnh mục tiêu về mức dự trữ cũng như có cơ chế, chính sách phù hợp.
Ở tầm nhìn chiến lược, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Trần Đình Thiên cho rằng, đã đến lúc Việt Nam cần phát động một cuộc cách mạng năng lượng mới. Nhiều nghiên cứu chỉ ra, trong tương lai không xa, năng lượng hydro sẽ dần thay thế các nguồn năng lượng hóa thạch đang dần cạn kiệt để hình thành “nền kinh tế hydro”. Không những là nguồn nhiên liệu sạch, hydro còn là nguyên liệu quan trọng cho nhiều lĩnh vực hoạt động của một nền kinh tế phát thải carbon thấp.
Bloomberg dự báo, tiêu thụ hydro sẽ tăng nhanh để đáp ứng tới 24% tổng nhu cầu năng lượng toàn thế giới vào năm 2050. Một thị trường hydro hình thành ở quy mô lớn sẽ tạo ra doanh thu khoảng 2.500 tỷ USD và 30 triệu việc làm. Đến nay, hơn 30 quốc gia đã xây dựng chiến lược phát triển hydro, 15 quốc gia đã ban hành chính sách thúc đẩy việc sản xuất, phát triển hạ tầng và sử dụng hydro nhằm đón đầu cơ hội.
Tại Việt Nam, Nghị quyết 55-NQ/TW cũng đề ra nhiệm vụ nghiên cứu công nghệ, xây dựng một số đề án thử nghiệm sản xuất và khuyến khích sử dụng năng lượng hydro phù hợp xu thế chung của thế giới. Trước yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhu cầu sử dụng năng lượng sẽ không ngừng gia tăng, trong khi nguồn cung ngày càng cạn kiệt. Việt Nam cần có lộ trình xây dựng mô hình năng lượng sạch cho tương lai.
Hydro với vai trò tích hợp các nguồn năng lượng tái tạo, tích trữ, phân phối năng lượng quy mô lớn cũng như giảm phát thải khí nhà kính trong các lĩnh vực khó khử carbon như giao thông vận tải, sản xuất công nghiệp nặng,… sẽ là giải pháp hữu hiệu để bảo đảm mục tiêu “kép” an ninh năng lượng và phát triển xanh, bền vững. “Hydro sẽ định hình thời đại năng lượng mới trong 10-15 năm tới. Để chuẩn bị cho quá trình chuyển sang thời đại xanh, thời đại “zero carbon” như cam kết của Việt Nam tại COP 26, “hydro xanh” cần được đặt trong chiến lược phát triển của đất nước”, ông Thiên nhấn mạnh.
Nguồn dự trữ xăng dầu quốc gia của Việt Nam so với nhiều nước khác như Mỹ hay Nhật Bản còn mỏng. Bộ Công thương đã xây dựng để trình Chính phủ đề án nâng mức dự trữ xăng dầu quốc gia, dự kiến khoảng gấp bốn lần mức quy định hiện hành.
NGUYỄN THÚY HIỀN Phó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch (Bộ Công thương)
(Còn nữa)