Năm 13 tuổi, Ngài đã xuất gia theo học tại chùa Đông Bình với Sư Tổ Thích Thanh Hán.
Năm 15 tuổi, Ngài được Sư Tổ cho đăng đàn thụ giới Sa Di tại chốn tổ chùa Phúc Long, xã Phù Lãng, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Năm 1945, Ngài đã cùng với Sư Tổ Thích Thanh Hán chuyển từ chùa Đông Bình về tu tập tại chùa Mỹ Lộc, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Sau Cách mạng Tháng Tám, Sư Tổ viên tịch năm 1946, Ngài tiếp tục ở lại chùa Mỹ Lộc cho đến năm 1949, Ngài y chỉ vào Sư huynh là Tổ Thích Tâm Duyệt thụ giới Tỷ khiêu tại chốn tổ chùa Nhị Châu, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
II. Những đóng góp cho Đạo pháp và dân tộc:
Khi mới chỉ là một vị Sa Di ở chùa, Ngài đã tích cực hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1946. Ngài đã tham gia vào Ban Thuế xã Cao Đức, trực tiếp thu thuế nông nghiệp nuôi quân kháng chiến, đồng thời làm liên lạc cho Hội Phật giáo cứu quốc huyện Gia Bình. Vừa vận động nhân dân, tín đồ phật tử đóng góp sức người, sức của vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, vừa xây dựng tổ chức Hội Phật giáo cứu quốc Gia Bình vững mạnh, tham gia hoạt động cách mạng, che giấu và bảo vệ cán bộ hoạt động bí mật tại xã Cao Đức.
Năm 1952, Hòa thượng bị giặc Pháp bắt giam ba tháng. Ngài chỉ nhất tâm niệm Phật, không khai báo. Sau khi không có đủ chứng cứ buộc tội, giặc Pháp đã phải trả tự do cho Hòa thượng.
Sau năm 1954, Hòa thượng đã tham gia Ban Bình dân học vụ xã Cao Đức và trực tiếp tham gia dạy bình dân học vụ xóa mù chữ cho nông dân.
Năm 1958, Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam tại miền bắc được thành lập, Hòa thượng được bầu vào Ủy viên Trị sự Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam, kiêm chức vụ Phó Thư ký Chi hội Phật giáo thống nhất tỉnh Bắc Ninh. Khi Phật giáo tỉnh Hà Bắc được thành lập, Hòa thượng giữ chức vụ Phó Ban Thường trực kiêm Chánh Thư ký Hội Phật giáo tỉnh Hà Bắc.
Từ năm 1958 đến năm 1961, Hòa thượng làm Tổ trưởng tổ đổi công và Ban quản trị Hợp tác xã nông nghiệp thôn Mỹ Lộc. Năm 1962, Hòa thượng được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1966, Hòa thượng được bầu làm Phó Chủ tịch, rồi Quyền Chủ tịch MTTQ xã Cao Đức.
Từ năm 1971 đến năm 1975, Hòa thượng tham gia khóa học của Trường tu học Phật pháp Trung ương, được tổ chức tại chùa Quảng Bá và chùa Quán Sứ, Hà Nội, nhận được sự truyền giảng của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Độ, Hội trưởng Hội Phật giáo thống nhất Việt Nam, do Đại lão Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm hiệu trưởng.
Năm 1975, Hòa thượng được bổ nhiệm về công tác Phật sự tại chùa Đại Thành - Trụ sở của Tỉnh hội Phật giáo Hà Bắc, giữ chức vụ Phó Trưởng Ban Thường trực kiêm Chánh Thư ký Tỉnh hội Phật giáo Hà Bắc. Sau khi Hòa thượng Trưởng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh viên tịch, Hòa thượng được kế vị ngôi trụ trì tổ đình Đại Thành từ đó cho đến ngày viên tịch hôm nay.
Kể từ khi thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm 1981, Hòa thượng luôn là thành viên tích cực và tham gia vào Hội đồng Trị sự nhiều nhiệm kỳ với nhiều trọng trách ở các Ban chuyên môn ở Trung ương, đồng thời Ngài luôn là trụ cột trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo Phật sự của Phật giáo tỉnh Hà Bắc.
Năm 1997, Hòa thượng được bầu làm Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh và được tấn phong lên hàng giáo phẩm Hòa thượng.
Năm 2002, tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2002 - 2007), Hòa thượng được Đại hội suy cử làm Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Năm 2007 tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VI (2007 - 2012) và Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VII (2012 - 2017), Hòa thượng được Đại hội suy tôn ngôi vị Phó Pháp chủ kiêm Chánh thư ký Ban Thường trực Hội đồng chứng minh GHPGVN.
Năm 2017 tại Đại hội đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ VIII (2017 - 2022), Hòa thượng tiếp tục được Đại hội suy tôn ngôi vị Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN.
Từ năm 1980 đến nay, Hòa thượng được thỉnh mời làm Giới sư, Tôn chứng sư, Hòa thượng Đàn đầu trong các giới đàn thụ giới của tỉnh Hà Bắc trước kia, và tỉnh Bắc Ninh ngày nay, cũng như các tỉnh thành ở miền bắc như Hải Dương, Quảng Ninh…
Để đền đáp công ơn thầy tổ và trang nghiêm ngôi Tam Bảo, Hòa thượng đã nhiều lần trùng tu chốn tổ chùa Đông Bình nơi Hòa thượng sơ cơ xuất gia, đại trùng tu, xây dựng mới nhiều hạng mục chùa Đại Thành, trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Bắc Ninh.
Với cương vị lãnh đạo của mình, Hòa thượng còn đại diện cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam giao lưu quốc tế, kết tập quần hiền, tham dự Hội nghị Phật giáo châu Á vì hòa bình được tổ chức tại Liên Xô (cũ) và nước Cộng hòa Mông Cổ.
Hòa thượng đã tham gia HĐND tỉnh Bắc Ninh liên tục năm khóa. Hòa thượng là thành viên của Ủy ban MTTQ tỉnh Hà Bắc (cũ), Ủy viên Ủy ban MTTQ tỉnh Bắc Ninh năm khóa liên tục, Ủy viên Ủy ban MTTQ thị xã Bắc Ninh ba khóa liền.
Năm 2004, Hòa thượng được bầu làm Ủy viên Ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam.
Hòa thượng đã nhận được những phần thưởng cao quý của Đảng, Nhà nước và Giáo hội: Huân chương Độc lập hạng nhất, ba; Huân chương Kháng chiến hạng nhì; Huy chương Vì sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng; Bằng tuyên dương công đức của Hội đồng Trị sự GHPGVN; và nhiều Bằng khen, Giấy khen của lãnh đạo tỉnh Hà Bắc, tỉnh Bắc Ninh.