Và đúng ra thì ý tưởng này cũng không phải là mới mà đã từng xuất hiện nhiều năm trước đây tại một kỳ họp của Quốc hội nước ta. Ở đây, chúng ta không nên quan tâm ai là người nêu ra đề xuất trên mà chỉ nên quan tâm chuyện ý tưởng này có thật sự mang lại lợi ích chính đáng cho số đông người dân và có góp phần đem lại sự phát triển ổn định và bền vững cho đất nước hay không.
Ðứng ở góc độ kinh tế, gửi tiền (bỏ vốn) vào ngân hàng để được hưởng mức lãi cố định (trong một khoảng thời gian nào đó) là hoạt động đầu tư có độ an toàn cao; và người gửi tiền vào ngân hàng cũng được xem là người cho ngân hàng vay vốn để kiếm lợi tức. Ngân hàng là người đi vay vốn để cho vay lại, và tất nhiên ngân hàng đã phải đóng thuế cho hoạt động kinh doanh tiền tệ của mình. Vậy tại sao Nhà nước không thu một mức thuế nào đó đối với những khoản lợi tức phát sinh từ hoạt động tín dụng sinh lời nói trên của người gửi tiền? Nếu không thu thì gần như chúng ta đã bỏ qua các nguyên tắc kinh tế và sự bất bình đẳng với các loại hình đầu tư khác. Theo các chuyên gia kinh tế, mọi hoạt động có thu nhập hoặc lợi tức đều cần phải xem xét thu một khoản thuế nào đó. Mỗi vòng quay tạo ra lợi nhuận của đồng tiền cần phải đóng thuế ở mức độ nhất định. Và lợi tức có được từ việc gửi tiền vào ngân hàng cũng phải được xem là một trong những nguồn thu nhập để tính vào tổng thu nhập phải chịu thuế. Hình thức thuế thường được áp dụng ở đây là loại thuế trực thu, do vậy thường đụng chạm trực tiếp đến lợi ích của người nộp thuế, dễ gây tâm lý bất bình trong xã hội. Vì vậy, cần xác định mức thu như thế nào cho hợp lý, phù hợp khả năng đóng góp của người nộp thuế.
Còn với hệ thống ngân hàng thương mại, cùng với những thuận lợi từ chính sách kinh tế vĩ mô, để thu hút được nguồn tiền gửi dồi dào với giá rẻ cũng như giảm lãi suất cho vay, ngân hàng phải có trách nhiệm vận dụng nhiều giải pháp, làm sao giảm được chi phí kinh doanh. Do vậy, sẽ là khiên cưỡng nếu nói đánh thuế lợi tức tiền gửi sẽ khiến ngân hàng hao hụt mạnh nguồn vốn và đẩy lãi suất vay vốn lên cao, như thời gian vừa qua, có thu thuế tiền gửi đâu mà lãi suất ngân hàng vẫn cao chót vót?! Hơn nữa, theo các nhà kinh tế, tiền gửi ngân hàng tăng thường làm giảm nhu cầu tiêu dùng lẫn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, và dẫn đến sự giảm sút cơ hội sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Không những vậy, nếu tiền gửi tăng, nguồn vốn sung túc, lãi suất vay vốn giảm mạnh cũng không đồng nghĩa là doanh nghiệp sẽ mạnh dạn vay vốn để đầu tư vào sản xuất, kinh doanh nếu cầu trên thị trường sụt giảm. Vào những lúc đó, Nhà nước có muốn tăng chi tiêu công nhằm tăng cầu để cứu doanh nghiệp cũng khó mà làm được, khi nguồn thu thuế không tăng thêm. Bên cạnh đó, thực tế ở nước ta cho thấy, có nhiều thời điểm, không ít các ngân hàng thương mại tập trung đổ vốn vào trái phiếu Chính phủ mà xao nhãng chuyện bơm vốn cho sản xuất, kinh doanh dù lãi suất cho vay sản xuất, kinh doanh cao hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ khá nhiều. Hơn nữa, xu hướng phát triển chủ đạo trong tương lai là vai trò của các ngân hàng thương mại sẽ giảm dần, nhường "sân khấu" cho các định chế tài chính phi ngân hàng. Bởi các định chế phi ngân hàng đã chứng minh được khả năng đáp ứng tốt hơn so với các ngân hàng thương mại đối với nhu cầu vốn đa dạng của nền kinh tế.
Do vậy, muốn thu thuế đối với lợi tức từ tiền gửi ngân hàng thì cần có những khảo sát, thống kê, phân tích, đánh giá kỹ càng, đầy đủ, xét đến nhiều khía cạnh kinh tế - xã hội trước khi xây dựng và ban hành chính sách. Ðể tạo ra được những chính sách tốt, có lợi cho đông đảo người dân thì đòi hỏi phải có những cơ sở thực tiễn đầy đủ, có độ tin cậy cao... Trước hết, cần phân loại tiền gửi, chỉ nên đánh thuế đối với những loại tiền gửi nhằm được hưởng lãi suất cao, không thu thuế đối với tiền gửi thanh toán (lãi suất không đáng kể). Tiếp đó, cân nhắc kỹ yếu tố thu nhập đủ sống và gia cảnh của người gửi tiền, nhất thiết phải phù hợp những quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân và các luật thuế khác. Còn những kỹ thuật quản lý thuế, ngành thuế và ngành ngân hàng sẽ thừa khả năng để không bỏ sót người lách thuế. Hai ngành này cũng sẽ có đủ năng lực để hạn chế và kiểm soát tốt những "luồng" tiền đi ra nước ngoài một cách thiếu trách nhiệm đối với đất nước.
Chính sách hay luật không phải là những điều bất biến mà cần có sự điều chỉnh để phù hợp theo biến động của thực tiễn cuộc sống. Mục tiêu của đề xuất thu thuế đối với lợi tức có được từ tiền gửi ngân hàng không phải là tận thu mà là điều chỉnh thu nhập, bảo đảm công bằng xã hội, hạn chế sự phân hóa xã hội. Với nhiệm vụ của mình, Nhà nước có thể giảm phân hóa xã hội bằng cách phân phối lại lợi tức xã hội thông qua công cụ thuế, đặc biệt là thuế lợi tức (doanh nghiệp và cá nhân). Cho đến nay chưa có lý thuyết nào chứng minh rằng sự phân hóa xã hội tỷ lệ thuận với sự phát triển nhanh và bền vững. Ngược lại, theo TS kinh tế Vũ Quang Việt, thực tiễn phát triển và các phân tích thống kê đều cho thấy rằng tốc độ phát triển thường đi liền với các chính sách làm giảm mức phân hóa trong xã hội và làm tăng vai trò tích cực của Nhà nước trong việc sử dụng quyền phân phối lại lợi tức của mình để phát triển giáo dục, y tế và nâng cao mức sống của phần lớn người dân. Chính sách phân phối lại lợi tức không hẳn làm giảm động lực phát triển của người giàu mà ngược lại, ở mức hợp lý, nó có thể tạo thêm động lực cho phát triển. Trong bất kỳ xã hội nào, sự công bằng tuyệt đối là điều không tưởng. Vì vậy, ngoài việc bảo vệ nguyên tắc công bằng, khi cần thiết Nhà nước phải thực hiện cả những hành động để định hướng, điều hòa quyền lợi vì lợi ích chung và lâu dài của xã hội.