'Vùng cấm bay'
Tây Tạng nổi tiếng là một địa danh đầy bí ẩn đối với khách du lịch. Con đường bộ từ Vân Nam, Tứ Xuyên hay Thanh Hải lên 'nóc nhà thế giới' cheo leo, hiểm trở, quanh năm sương mù dày đặc. Ði từ Tân Cương phải qua hai đèo cao 6.000 m. Người yếu không vượt qua được. Tàu hỏa từ Thanh Hải đi Tây Tạng mới thông tuyến được vài năm nay cũng chỉ phục vụ những người miền bắc Trung Quốc là chính... Ðoạn đầu cuộc hành trình tới Tây Tạng của chúng tôi không được suôn sẻ cho lắm do thời tiết xấu. Hôm sau, chúng tôi mới đến nơi. Sân bay Lhasa nằm ở huyện Gonggar, cách thủ phủ Lhasa của Tây Tạng hơn 100 km, có độ cao hơn 3.600 m so mực nước biển, lọt thỏm giữa những dãy núi đá. Máy bay chỉ có một đường duy nhất vòng qua Tứ Xuyên để tránh núi. Chả thế mà các hãng hàng không dân dụng quốc tế không mở đường bay qua Tây Tạng và gọi đây là 'vùng cấm bay' vì nhiều núi cao.
Một nghiên cứu khoa học cho kết quả kinh ngạc rằng, trong cơ thể người Tây Tạng có loại gene EPAS1 giúp tạo ra một loại prô-tê-in có khả năng điều chỉnh lượng ô-xy trong cơ thể để thích nghi với môi trường trên cao và không khí loãng (có lúc chỉ còn 30% lượng ô-xy trong không khí). Chả thế mà chúng tôi thấy đau đầu chỉ vài giờ sau khi xuống sân bay Lhasa, mặc dù lượng ô-xy trong không khí mùa hè đạt gần 60%, cao nhất trong năm. Cả đoàn hạn chế hoạt động thể lực, được khuyên dùng thuốc chống choáng độ cao và đeo mặt nạ dưỡng khí nếu thấy cần thiết, nhất là khi ngủ.
Miền đất linh thiêng và huyền bí
'Không thăm Cung Pô-ta-la thì coi như chưa đến Tây Tạng', một người Tây Tạng nói với chúng tôi như vậy. Ðây là một kiến trúc mang tính biểu tượng của Tây Tạng, được xây trên núi Hồng ở địa thế cao hơn 3.700 m so mặt biển. Cung Pô-ta-la có tòa lầu chính cao 13 tầng, với hơn 1.000 phòng lớn nhỏ với gần mười nghìn Phật điện. Nơi đây treo nhiều bức bích họa, lưu giữ nhiều tượng Phật, kinh thư và các tác phẩm quý giá. Năm 1994, nơi này được công nhận là di sản văn hóa thế giới. Cung còn là nơi sống và làm việc của nhiều đời Ðạt lai Lạt ma, người được coi là hiện thân của Quán Thế âm bồ tát, đứng đầu Phật giáo Tây Tạng. Mỗi vị chết đi sẽ lại có một Ðạt lai Lạt ma tái sinh khác thay thế.
Theo truyền thuyết, sau khi Ðạt lai Lạt ma viên tịch, nhân vật thứ hai trong Phật giáo Tây Tạng là Ban thiền Lạt ma sẽ bắt đầu công việc tìm kiếm người thừa kế. Ở Tây Tạng có một cái hồ tên là Lhamo Lhatso rất thiêng. Theo truyền thuyết, người ta có thể nhìn thấy tương lai từ chiếc hồ này. Ðể tìm 'Phật sống' tái sinh của Ðạt lai Lạt ma thứ 13, Ban thiền Lạt ma đã nhìn thấy trên mặt nước xuất hiện hình ảnh một ngôi chùa ba tầng với mái ngói mầu xanh và một căn nhà có chiếc máng nước kỳ lạ. Ông đã cử một phái đoàn mang theo hình ảnh đó đi khắp nơi để tìm sự tái sinh của Ðạt lai Lạt ma. Họ đến làng Amdo và thấy cảnh quan nơi này rất giống hình ảnh xuất hiện trên mặt hồ Lhamo Lhatso. Vào một ngôi nhà được cho là giống như hình vẽ, người trưởng đoàn giật mình khi cậu bé trong nhà đòi xem và tỏ ý muốn lấy chiếc vòng tràng hạt (của Ðạt lai Lạt ma thứ 13) mà ông mang theo. Sau một vài lần thử khác nhau, người trưởng đoàn xác định đây chính là 'Phật sống' mà họ cần tìm...
Câu chuyện về nàng công chúa Văn Thành nhà Ðường từ biệt vua cha đi làm dâu xứ Thổ Phiên (nay là Tây Tạng) xa vài nghìn km vì không muốn có chiến tranh như đưa chúng tôi trở về Tây Tạng thời kỳ hơn 1.300 năm trước. Năm 639, vua Songtsen Gampo xứ Thổ Phiên đưa quân tiến công Tùng Châu, một thành phố biên giới thời nhà Ðường ở Trung Quốc, và bị quân nhà Ðường đánh bại, Songtsen Gampo đành cúi đầu xưng thần. Vua Ðường Thái Tông chấp thuận sự cầu hòa và gả công chúa Văn Thành cho Songtsen Gampo. Từ đó, nhân dân hai vùng đất không còn sống trong cảnh chiến tranh triền miên. Năm 680, công chúa Văn Thành lâm bệnh rồi qua đời, nhân dân Thổ Phiên xót thương nàng nên xây dựng chùa ở khắp nơi để thờ.
Cuộc sống trên 'nóc nhà thế giới'
Trong Cung Pô-ta-la và chùa Ðại Chiêu, những vị Ðạt lai mặc áo nâu đỏ, đầu đội mũ vàng, tay lần tràng hạt, miệng lầm rầm khấn vái trong một buổi lễ quan trọng của nhà Phật. Một số vị Lạt ma khác đứng ở hành lang, nơi có các quầy bày đầy những đồ dùng của nhà Phật như: hương, tràng hạt, bùa hộ mệnh, quạt, mũ, chuông,... và luôn miệng mời khách du lịch 'thỉnh' chúng về dùng. Tất nhiên khách phải trả 'tiền khai quang' cho nhà chùa.
Người Tây Tạng hiếu khách, thân tình, họ yêu ca hát nhảy múa. Họ sống bằng nghề nông và chăn nuôi gia súc. Ði bộ trên những con phố ở Lhasa, chúng tôi thấy đa số các hàng quán bên đường là do người Hán quản lý. Cách bài trí của những hàng quán này không khác mấy so hàng quán ở các tỉnh, thành khác của Trung Quốc. Trên phố Bát Giác gần chùa Ðại Chiêu có nhiều cửa hàng của người dân bản địa hơn, bày bán la liệt những hàng thủ công mang đậm mầu sắc dân tộc. Thi thoảng cũng có cửa hàng của người Nê-pan hay Ấn Ðộ kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ. Chúng tôi đến mua đông trùng hạ thảo, một loại dược phẩm quý của Tây Tạng trong một cửa hàng của một người Hán gần đó. Cũng chẳng biết tác dụng của nó đến đâu, nhưng ai cũng phải kêu rằng giá đắt hơn vàng, 1.000 nhân dân tệ (khoảng ba triệu đồng) chỉ mua được vài gam dược phẩm loại này.
Một cán bộ người địa phương đi cùng đoàn chỉ tay vào dòng người hành hương và giải thích sự khác biệt giữa người dân du mục, nông dân và người thành thị. Cách sống của dân du mục Tây Tạng hiện nay chẳng khác thời thế kỷ thứ VII là mấy. Ðàn ông du mục thường ăn vận những chiếc áo dài làm bằng cả mảng da dê lớn, cùng những đôi giày da lộn cỡ bự. Phụ nữ tết tóc dài và đeo nhiều đồ trang sức lỉnh kỉnh. Họ trung thành với lối sống cũ, ít khi đến các thành phố lớn. Người nông dân thường ăn mặc những chiếc áo dài mầu tối do họ tự may, trông nhẹ nhàng, giản dị. Họ thường quấn thêm một tấm vải to ngang lưng, hoặc gấp chiếc váy rộng thành nhiều lớp ngang bụng. Còn những người sống ở thành thị thì rất biết chăm sóc sắc đẹp trong cách ăn mặc. Trang phục của họ thường có mầu sắc sặc sỡ. Con trai thường đeo khuyên tai có viên đá mầu xanh bên tai phải, thể hiện sự lịch thiệp, tao nhã. Những người giàu có đeo những khuyên tai khảm ngọc đắt tiền...
Người Tây Tạng có thói quen ăn hai bữa chính vào khoảng mười giờ sáng và sáu giờ chiều. Món ăn thường là bánh Zanba (gần giống bánh mỳ đen) và uống sữa dê, trà, rượu. Người dân nơi đây thường dùng trà để uống thay nước hoặc làm canh khi ăn Zanba. Khi pha trà họ thường cho thêm vào ấm hoặc cốc một miếng bơ bò. Các gia đình khá giả thì ăn thịt bò khô, thịt dê khô cho vào nấu với ớt cay. Bữa ăn của người Tây Tạng thường thiếu rau xanh do đất nơi đây cằn cỗi. Do địa hình phức tạp nên Tây Tạng hầu như bị ngăn cách với thế giới bên ngoài. Trong các cuộc tiệc tùng, những cô gái Tây Tạng da ngăm đen thường hát liên tiếp những bài hát chúc rượu của địa phương cho đến khi mời được bạn uống hết chén rượu mới thôi...
Do Trung Quốc quy định sử dụng thống nhất một múi giờ nên sáu giờ sáng mà trời ở Tây Tạng vẫn tối. Người dân ở đây thường đi làm rất muộn. Buổi tối, trước khi đi ngủ, người Tây Tạng thường có thói quen đọc kinh Phật. Họ tin vào Ðức Phật, coi cuộc sống hiện tại chỉ là tạm thời và tin vào kiếp luân hồi, nên khi đến chùa, ai cũng cố chạm tay và quay những cái chuông dùng để xoay (chuông chuyển kinh), miệng niệm chú: 'úm ma ni bát mê hồng', cầu mong kiếp sau có cuộc sống tốt đẹp hơn.