Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam

Ngay sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (30-4-1975) trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhanh chóng bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) trên phạm vi cả nước, thì ở biên giới Tây Nam của Tổ quốc, chính quyền Cam-pu-chia dân chủ, do tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari cầm đầu, được sự hậu thuẫn của nước ngoài đã cho quân liên tiếp gây ra hàng loạt vụ xâm phạm lãnh thổ Việt Nam, cướp phá, giết hại dã man đồng bào ta. Đây là hành động vi phạm luật pháp quốc tế, phá hoại mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết liên minh chiến đấu lâu đời giữa hai dân tộc, hai nước Việt Nam - Cam-pu-chia.

Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam

Đảng và Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương giải quyết tình hình biên giới Tây Nam bằng con đường hòa bình, hữu nghị; thế nhưng, chính quyền Pôn Pốt - Iêng Xari không những không hợp tác, mà còn tiếp tục cho quân tiến công lấn chiếm lãnh thổ dọc tuyến biên giới Tây Nam. Trước tình hình đó, Bộ Chính trị đồng ý với đề xuất của Quân ủy T.Ư đưa một số đơn vị chủ lực vào phối hợp với lực lượng vũ trang các Quân khu 5, 7, 9 kiên quyết đánh trả, trừng trị đích đáng quân xâm lược. Mặc dù bị đánh thiệt hại nặng nề, nhưng với bản chất hiếu chiến, tư tưởng dân tộc cực đoan, đầu năm 1978, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari vẫn khước từ mọi nỗ lực thiện chí hòa bình và những đề nghị có tình, có lý của Chính phủ Việt Nam; huy động phần lớn lực lượng chủ lực áp sát biên giới, liên tiếp mở các cuộc tiến công vào lãnh thổ Việt Nam, gây cho ta nhiều thiệt hại lớn về người và tài sản.

Trước tình hình đó, T.Ư Đảng ta ra nghị quyết về tình hình nhiệm vụ mới, chỉ rõ nguồn gốc, tính chất, đặc điểm của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và đề ra chủ trương phương hướng giành thắng lợi sớm. Đồng thời, để đáp ứng đề nghị khẩn thiết của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, tháng 12-1978, Bộ Chính trị và Quân ủy T.Ư thông qua quyết tâm mở cuộc tổng phản công, tiến công chiến lược trên tuyến biên giới Tây Nam, đồng thời sẵn sàng phương án hỗ trợ các lực lượng vũ trang yêu nước Cam-pu-chia đánh đổ tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari, giành chính quyền về tay nhân dân.

Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời của T.Ư Đảng, do có sự chuẩn bị tốt về lực lượng, thế trận. Sau 25 ngày đêm tiến hành tổng phản công, tiến công thần tốc (từ 23-12-1978 đến 17-1-1979) quân và dân ta đã đánh đuổi quân Pôn Pốt ra khỏi lãnh thổ Tổ quốc; đồng thời, đáp ứng đề nghị của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, quân tình nguyện Việt Nam đã phối hợp với lực lượng của Bạn giải phóng Phnôm Pênh (7-1-1979) và toàn bộ đất nước Cam-pu-chia (17-1-1979), đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari, giúp Bạn thành lập Hội đồng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia (8-1-1979) - đại diện chân chính, hợp pháp duy nhất của nhân dân Cam-pu-chia.

Thắng lợi của cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa, có hiệu quả của Việt Nam, giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng và từng bước hồi sinh, một lần nữa khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh đó, Đảng ta đã nhận định, đánh giá đúng tình hình, đề ra chủ trương, đường lối, mục tiêu chính trị, có chiến lược, sách lược đúng đắn, phát huy sức mạnh toàn dân tộc đập tan hành động xâm lược của các thế lực phản động, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Thắng lợi đó để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, cần tiếp tục nghiên cứu, vận dụng phù hợp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp, khó lường, để tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, thường xuyên quán triệt, nắm vững quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng; nắm chắc tình hình, đề cao cảnh giác cách mạng, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Để ngăn chặn âm mưu của kẻ địch, thì cán bộ, bộ đội và nhân dân ta cần phải luôn luôn nâng cao cảnh giác. Đó là một nghĩa vụ quan trọng mà mọi người công dân phải làm trọn để chống lại âm mưu của đế quốc và bè lũ tay sai, để bảo vệ nhân dân và bảo vệ Tổ quốc”(1). Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần tăng cường học tập, quán triệt sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng (QS, QP), bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phải đẩy mạnh giáo dục lòng yêu nước truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc và quân đội cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân.

Thường xuyên nắm chắc tình hình, thời cơ và thách thức; phân biệt rõ “đối tượng” và “đối tác”; không mơ hồ, mất cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ gìn bí mật, nhất là bí mật quân sự, bí mật quốc gia. Giữ vững định hướng chính trị, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền; kịp thời định hướng tư tưởng, dư luận cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân về những vấn đề mới, phức tạp nảy sinh từ thực tiễn, góp phần tăng cường sự đồng thuận trong xã hội về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chủ động trước mọi diễn biến của tình hình, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN...

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc.

Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lĩnh vực quốc phòng, quân sự, bảo vệ Tổ quốc, nhất là đối với lực lượng vũ trang là nguyên tắc bất di bất dịch. Trong tình hình hiện nay, cần tập trung thực hiện tốt Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011); Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết T.Ư 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới; Luật Quốc phòng (sửa đổi), Luật Biên giới quốc gia; Chiến lược Quốc phòng Việt Nam; Chiến lược Quân sự Việt Nam; Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; các kế hoạch phòng thủ quốc gia và các vùng; kế hoạch xử trí trong các tình huống xung đột, bạo loạn, xảy ra chiến tranh xâm lược... Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện quan điểm, chủ trương, nguyên tắc, chính sách, cơ chế vận hành và mối quan hệ giữa các tổ chức, con người hoạt động trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng; cơ chế Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội, công an và lĩnh vực QS, QP bảo vệ Tổ quốc. Coi trọng công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận trong lĩnh vực QS, QP và phát triển nền khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam.

Tiếp tục tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của các cấp ủy và tổ chức đảng; đề cao tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; gắn việc thực hiện Nghị quyết T.Ư 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh... góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Ba là, phát huy vai trò của Nhà nước, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Trong quản lý, điều hành đất nước, Nhà nước căn cứ vào quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng và những quy định của Hiến pháp để từng bước bổ sung, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về QS, QP, bảo vệ Tổ quốc, tạo hành lang pháp lý cho các tổ chức và toàn dân thực hiện. Chú trọng hoàn thiện các chương trình, mục tiêu, kế hoạch quân sự, quốc phòng; kế hoạch động viên quân đội, phòng thủ quốc gia... Quản lý chặt chẽ, thống nhất các hoạt động quân sự, quốc phòng theo pháp luật. Phát huy tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước để quản lý, điều hành các hoạt động QS, QP phù hợp với đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ trong lĩnh vực này...

Tăng cường định hướng và tạo mọi điều kiện để MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội xác định đúng mục tiêu, phương thức tham gia xây dựng và thực hiện chủ trương, định hướng, quan điểm, giải pháp về nhiệm vụ QS, QP của Đảng và Nhà nước; tham gia vào các hoạt động QS, QP theo quy định của pháp luật; đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia...

Bốn là, chú trọng xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực QS, QP.

Trên cơ sở cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách, nguyên tắc, cơ chế lãnh đạo, chế độ công tác, quy chế làm việc, tiêu chuẩn cán bộ của Đảng và thực tiễn QS, QP để điều chỉnh, quyết định sự tăng, giảm các tổ chức quân sự; biên chế, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt; xây dựng phong cách làm việc của tổ chức, cán bộ... Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của cấp ủy địa phương đối với công tác quốc phòng, quân sự. Phát huy trách nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể, cơ quan quân sự địa phương và người đứng đầu trong tham mưu, quản lý và tổ chức các hoạt động QS, QP.

Chú trọng nâng cao năng lực quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng và tổ chức thực hiện trong thực tiễn; tăng cường công tác phối hợp giữa các tổ chức, các lực lượng trên cơ sở nguyên tắc, chức năng, nhiệm vụ. Thường xuyên làm tốt công tác nắm, dự báo tình hình, phát hiện, giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh, đặc biệt là những vấn đề mới, nhạy cảm liên quan đến ổn định chính trị - xã hội; những bất đồng, tranh chấp trong vấn đề biên giới, lãnh thổ.

Năm là, tiếp tục xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

Để quân đội tiếp tục là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc, chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia; là công cụ bạo lực sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN thì vấn đề hàng đầu là tập trung xây dựng Đảng bộ quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong đó, chú trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tự phê bình, phê bình; phát huy bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng; nâng cao kiến thức, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên. Chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường kỷ luật và sự đoàn kết thống nhất...

Cần đặc biệt chú trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, chính sách, pháp luật... định hướng việc tiếp nhận và xử lý thông tin; quản lý chặt chẽ và phát huy sức mạnh tổng hợp của các phương tiện thông tin đại chúng, các hình thức, phương pháp công tác tư tưởng, văn hóa; tăng cường thông tin thời sự, chính sách, thông tin nghiên cứu... làm cho cán bộ, chiến sĩ giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, trung thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc, nhân dân và chế độ XHCN, luôn đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân; có phẩm chất đạo đức trong sáng; luôn kiên định, vững vàng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới; kiên quyết đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội của các thế lực thù địch; chủ động phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Tiếp tục xây đựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Tập trung, tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược. Phối hợp chặt chẽ với các ban, bộ, ngành T.Ư và địa phương xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Nâng cao chất lượng xây dựng tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng. Nắm vững đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước, tăng cường hợp tác đối ngoại quốc phòng với các nước, nhất là các nước láng giềng, xây dựng biên giới hòa bình hữu nghị và phát triển; đẩy mạnh phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia”.

Kỷ niệm 40 năm Chiến thắng chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng, hồi sinh và phát triển đất nước là dịp tốt để chúng ta ôn lại những trang sử hào hùng vẻ vang của dân tộc, tự hào về Đảng ta, về nhân dân ta và Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Là dịp để chúng ta tôn vinh, tri ân các anh hùng, liệt sĩ, đồng bào, đồng chí thế hệ cha, anh đã vượt qua muôn vàn hy sinh, gian khổ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả. Kế thừa và phát huy truyền thống toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường xây dựng, củng cố lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

(*)Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.389.