Quản trị ngân hàng số trong phát triển kinh tế số ở Việt Nam

NDO -

Chiều 17/12, tại Hà Nội, Học viện Tài chính (Bộ Tài chính) phối hợp Ủy ban nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, Cục phát triển thị trường và doanh nghiệp khoa học và công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) và Ngân hàng Vietcombank, chi nhánh Thanh Xuân, tổ chức hội thảo Quốc gia với chủ đề: “Quản trị ngân hàng số trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế số hiện nay ở Việt Nam”.

Quang cảnh hội thảo.
Quang cảnh hội thảo.

Trên 70 bài tham luận và ý kiến phát biểu trực tiếp tại hội thảo của các nhà khoa học các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, các tổ chức, đơn vị ở trong và ngoài Bộ Tài chính đã tập trung làm rõ sự cần thiết, nội dung cốt lõi và các giải pháp cơ bản, đa dạng cần thiết về quản trị ngân hàng số trong quá trình phát triển kinh tế số hiện nay ở nước ta. 

Ngân hàng có vai trò quan trọng trong mọi nền kinh tế hiện đại. Trong kỷ nguyên số, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, sự phổ cập thiết bị di động và những bước tiến mới của trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ blockchain, đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu mới, thách thức mới và cả cơ hội mới, từ phương thức hoạt động kinh doanh đến công tác quản trị của hệ thống ngân hàng.

So với các khái niệm ngân hàng trực tuyến (online banking, internet banking), ngân hàng ảo (virtual bank), ngân hàng điện tử (e-banking), ngân hàng trực tuyến (direct bank), thì ngân hàng số có phạm vi rộng hơn và toàn diện hơn, bởi đòi hỏi tích hợp số hóa đối với toàn bộ các lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, ứng dụng số hóa trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tài chính và trong cả các hoạt động tương tác với khách hàng.

Về lý thuyết, có 3 cấp độ chuyển đổi ngân hàng số: Cấp độ 1 là chuyển đổi một phần, số hóa quy trình, kênh phân phối hoặc sản phẩm dịch vụ; Cấp độ 2 là xây dựng mảng kinh doanh số riêng cho ngân hàng; Cấp độ 3 là số hóa toàn bộ hoạt động ngân hàng.

Tập đoàn công nghệ mấy tính đa quốc gia (IBM) phân loại Ngân hàng số thành 4 hình thái, bao gồm: (i) Chi nhánh ngân hàng số; (ii) Kênh phân phối ngân hàng số; (iii) Công ty con ngân hàng số; (iv) Ngân hàng số thuần túy.

Việt Nam được đánh giá là thị trường đầy tiềm năng, cơ hội cho phát triển Ngân hàng số với 100 triệu dân, cơ cấu dân số trẻ và tỷ lệ dân số sở hữu điện thoại thông minh cao (trên 72%), với 130 triệu thuê bao di động, 64 triệu người dùng internet (chiếm 67% dân số).

Theo Quyết định 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình “Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, ngân hàng được xác định là lĩnh vực có tác động xã hội, liên quan hằng ngày tới người dân, thay đổi nhận thức nhanh nhất, mang lại hiệu quả, giúp tiết kiệm chi phí cần ưu tiên chuyển đổi số trước. Ngân hàng Nhà nước được giao nhiệm vụ tổ chức và thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng hướng tới việc cung cấp dịch vụ ngân hàng số, xây dựng hệ sinh thái dịch vụ tài chính ngân hàng; ban hành cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số được tiếp cận tín dụng một cách thuận lợi; góp phần xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số.

Trên thực tế, phần lớn các ngân hàng nội địa Việt Nam đều có chiến lược số hóa và định hướng phát triển ngân hàng số; nhiều ngân hàng còn đặt mục tiêu trở thành ngân hàng số hàng đầu... Song đa số ngân hàng mới đang số hóa ở cấp độ 1; một số ngân hàng lớn đang đồng thời thực hiện cấp độ 2. Nhiều ngân hàng đã thành lập khối, hoặc trung tâm ngân hàng số, từng bước chuyển đổi mô hình hoạt động, kinh doanh sản phẩm, dịch vụ theo hướng số hóa. Hầu hết các ngân hàng đã số hóa dịch vụ thanh toán và đang thực hiện vấn đề này đối với các dịch vụ ngân hàng còn lại…