Những mặt hàng cạnh tranh cao của TP Hồ Chí Minh

Những mặt hàng cạnh tranh cao của TP Hồ Chí Minh

Chặng đường chiếm lĩnh thị trường

Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, có kim ngạch xuất khẩu từ 5 đến 120 triệu USD với nhịp độ tăng trưởng hằng năm 10-30% đều cho biết: Ðể có thể cạnh tranh đứng vững ở thị trường trong nước, đặt chân ra thị trường ngoài nước, doanh nghiệp phải có tính chuyên nghiệp cao, có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi và thiết bị công nghệ hiện đại. Ba khâu này gắn bó chặt chẽ, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Chủ doanh nghiệp giỏi là người có bản lĩnh, dám đột phá một trong ba khâu, chuyển xoay thế trận thị trường, đưa doanh nghiệp đi lên.

Trong xu thế mở cửa hiện nay, người tiêu dùng tiếp cận nhiều hơn với hàng nước ngoài. Khách hàng đòi hỏi được phục vụ văn minh, tiện nghi, lịch sự, sẵn sàng quay lưng với những mặt hàng có mẫu mã cũ, kém chất lượng. VINAMILK 15 năm kiên trì xây dựng chính sách tiêu thụ bền vững bằng việc mở một loạt nhà máy chế biến ở ba vùng trọng điểm, liên tục thay đổi mẫu mã sản phẩm với chất lượng cao, đẩy doanh thu nội địa năm 2004 vượt cả những năm làm ăn thuận lợi nhất, kim ngạch xuất khẩu đạt 33 triệu USD (ở mức khiêm tốn do biến động thị trường). Năm 2005, VINAMILK có kế hoạch mở rộng xuất khẩu sang Mỹ, Australia, phấn đấu trở thành tập đoàn sản xuất thực phẩm đa dạng, sẵn sàng cạnh tranh bình đẳng với các hãng ở khu vực ASEAN.

Với Công ty phân bón Bình Ðiền, cả hai thị trường trong nước và nước ngoài đều được coi trọng như nhau. Phân bón hiệu "Con Trâu" tiến vào thị trường Cam-pu-chia giữa lúc hàng Thái-lan và Philippines chiếm ưu thế. Nhằm làm ăn lâu dài, Bình Ðiền cử cán bộ kỹ thuật tìm hiểu tập quán canh tác, nghiên cứu đất đai, giống lúa ở địa phương cho phù hợp sản phẩm bán ra. Tiếp theo in bao bì bằng chữ nước bạn, phát 70 nghìn bản hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cây trồng đến tận tay nông dân, rồi vận động bà còn dùng thử nghiệm sản phẩm của mình trên ruộng hoặc cử nhân viên đến tận nơi hướng dẫn sử dụng. Kết quả sau khi sử dụng phân bón Bình Ðiền cây lúa tốt hơn. Tiếng lành đồn xa, bà con nông dân tìm mua phân bón hiệu "Con Trâu", song công ty chỉ bán cho khách hàng qua lớp hướng dẫn cách sử dụng. Ðến nay, 80% số nông dân các tỉnh biên giới nước bạn sử dụng sản phẩm Bình Ðiền. Công ty có đại lý phân phối ở 16/22 tỉnh, thành phố và chiếm khoảng 50% thị phần phân bón ở Cam-pu-chia. Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 mới đạt 2 triệu USD. Năm 2004 tăng gấp năm lần, đạt 10 triệu USD. Năm 2005, Bình Ðiền đặt mục tiêu sẽ có mặt ở 22 tỉnh, thành phố Cam-pu-chia, chiếm 70% thị phần, với kim ngạch xuất khẩu đạt 15 triệu USD.

Công ty may Việt Tiến, doanh nghiệp hàng đầu của ngành dệt - may Việt Nam nhờ đầu tư 70% số thiết bị hiện đại, sản phẩm Việt Tiến đang trở thành thương hiệu uy tín với người tiêu dùng trong và ngoài nước nhờ chất lượng cao. 90% số nhà nhập khẩu yêu cầu nhập sản phẩm mang thương hiệu Việt Tiến, công ty đã ký xong 70% số hợp đồng cho kế hoạch cả năm 2005.

Ðối với Công ty kinh doanh Thủy hải sản (APT) năm 2004 cũng là năm gặp nhiều khó khăn về nguyên liệu, giá cả, song nhờ chuyển hướng mạnh sang thị trường Nga, Nhật Bản, Eu, Hàn Quốc, Thái-lan, Mỹ... APT đạt kim ngạch xuất khẩu 36 triệu USD với nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao như mực khô ăn liền, cá bò nướng ăn liền, bạch tuộc, mực, nghêu, chả giò, há cảo, chả cá. APT cũng chính thức đưa nhà máy chế biến được đầu tư với số vốn 100 tỷ đồng, tăng 30% so với công suất hiện có, đi vào hoạt động nhằm mở rộng bán ra ở thị trường nội địa, tạo vốn cho xuất khẩu.

Chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ giờ đây không chỉ là cuộc đọ sức của DNNN, mà còn là cuộc đua tranh quyết liệt của DN thuộc các thành phần kinh tế. Cuộc lội dòng ngoạn mục của các DN đồ gỗ và linh kiện điện tử của TP Hồ Chí Minh cho thấy rõ tính quyết định của thị trường tiêu thụ. Chính thị trường thế giới thúc đẩy các DN nhỏ và vừa ngành gỗ và điện tử mở rộng sản xuất, kinh doanh, làm ăn thành đạt, tạo các kênh kinh doanh mới cho những sản phẩm trước đây không có tên ở danh sách xuất khẩu, nay bước vào câu lạc bộ có kim ngạch xuất khẩu một tỷ USD.

Sự thành đạt của các DN làm ăn trên địa bàn trong năm 2004, năm kinh tế đầy biến động giúp cho TP Hồ Chí Minh đạt kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỷ USD, chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Còn nhiều gian nan

Theo các chuyên gia kinh tế, năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm được tạo thành bởi bốn yếu tố: giá thành, chất lượng, tổ chức tiếp thị và tiếp cận thị trường. So với nhiều năm trước, DN Việt Nam đã có bước tiến dài về kinh doanh nghiệp vụ, song so với thị trường khu vực và thế giới đầy năng động và thường xuyên thay đổi nhu cầu, đội ngũ DN nước ta còn nhiều việc phải làm. Cho đến nay vẫn còn nhiều DN thiếu thông tin về sản phẩm thích hợp, đối thủ cạnh tranh, nhu cầu người tiêu dùng, môi trường và luật pháp nước quan hệ. Nhiều DN chưa ý thức được rằng, trong nền kinh tế thị trường bán hàng khó hơn sản xuất. DN vẫn chạy theo kiểu làm ăn nhỏ, lẻ, chụp giật, chưa liên kết cộng đồng thực hiện đơn hàng lớn, có giá trị cao. Nhiều DN chưa có thói quen phúc đáp hợp đồng điện tử và thực hiện hợp đồng đúng hẹn. Các trang thông tin điện tử của DN còn nghèo về nội dung và chưa cập nhật, khiến cho đối tác nước ngoài thiếu tin tưởng. Trình độ phát triển về thương mại điện tử thấp và tiến triển chậm. Các quy định về hải quan, thanh toán ngoại hối chưa thích hợp với thương mại điện tử quốc tế. Ngoài ra, năng lực tài chính còn nhỏ và trình độ ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh yếu, cũng là những hạn chế lớn trong cạnh tranh thị trường của một số doanh nghiệp.

Trong các nhóm hàng được coi là có khả năng cạnh tranh và đang cạnh tranh có hiệu quả ở TP Hồ Chí Minh gồm hàng nông, lâm, thủy sản, giày dép, may mặc... chủ yếu ở dạng gia công, chi phí tiền công thấp, năng lực chủ yếu nhỏ lẻ, cần liên kết mạnh hơn, nhanh chóng nhập khẩu thiết bị hiện đại, thực hiện các đơn hàng lớn trong thời gian ngắn nhất. Du lịch cũng có cơ hội, song cần đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ, hiện chi phí quá cao, chất lượng phục vụ chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của cả nước. Các nhóm hàng này thường xuyên bị thách thức bởi các đối thủ cạnh tranh ngay trong khu vực, vì vậy cần thay đổi mẫu mã, đa dạng hóa sản phẩm, phương thức dịch vụ cũng như quan tâm đến đội ngũ thiết kế, chuyên sâu. Nhóm cạnh tranh có điều kiện bao gồm những sản phẩm đa dạng thuộc các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, trong đó có những ngành như rau quả, hoa, cây cảnh. Nếu được cải thiện về giống công nghệ trồng trọt và chế biến là những ngành có tiềm năng cạnh tranh mạnh. Các ngành dịch vụ điện tử, ngân hàng, bảo hiểm, tin học, thông tin... nếu có chính sách đầu tư, khai thác sử dụng hợp lý cũng có tiềm năng cạnh tranh. Ðối với nhóm hàng cạnh tranh thấp, khả năng cạnh tranh thua xa các đối thủ khu vực cần có lộ trình hội nhập.

Cách phân định nhóm hàng như nêu trên chỉ là những lằn ranh tạm thời, nhằm tìm ra liều thuốc phù hợp, nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa của TP Hồ Chí Minh vốn là thành phố chiếm gần 30% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.

Ði tìm giải pháp

Làm gì để mở rộng thị trường sang các nước khu vực và thế giới, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa Việt Nam và TP Hồ Chí Minh khi cùng các nước thực hiện thuế suất bằng 0? Ðây là nhiệm vụ trung tâm của TP Hồ Chí Minh cũng như của cả nước, mà quan trọng nhất là các doanh nhân vì sự tồn tại của bản thân doanh nghiệp.

Ngay từ bây giờ cần hoạch định một chiến lược tổng thể, thực hiện đồng bộ chiến lược nâng cao chất lượng, giảm giá thành hàng Việt Nam bằng việc tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng. Thực hiện chiến lược bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ nhà sản xuất khi tham gia AFTA, APEC, WTO như khuyến khích đầu tư xuất khẩu bằng chính sách. Coi thị trường trong nước là hậu thuẫn, điểm đến tạo đà để DN thâm nhập thị trường quốc tế, đồng thời thực hiện chính sách quảng cao tiếp thị hợp lý. DN cần xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh thích hợp bao gồm: chiến lược phát triển khoa học - công nghệ, chiến lược mặt hàng, chiến lược thị trường trong điều kiện có sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngoài. Có chính sách mặt hàng phù hợp nhất là đối với ngành thuế hải quan, phát huy vai trò tích cực của các Hiệp hội DN trong cung cấp thông tin mở rộng và tìm kiếm thị trường mới cho DN theo hướng xuyên quốc gia. Ðồng thời, có tiếng nói chung trên thương trường nhằm hạn chế việc bị các đối tác nước ngoài ép cấp, ép giá hàng hóa. Tích cực chống buôn lậu, tham nhũng cũng là biện pháp bảo vệ hàng trong nước sản xuất. Có chính sách phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giúp doanh nghiệp, người lao động làm chủ được công việc, lĩnh vực được phân công. Có chính sách hợp lý trong việc đào tạo ba đối tượng: cán bộ luật pháp quốc tế, cán bộ xuất nhập khẩu, trí thức đầu ngành và đội ngũ công nhân lành nghề. Việc TP Hồ Chí Minh có chính sách hỗ trợ các mặt hàng chủ lực tạo điều kiện vốn, xúc tiến thương mại, quảng cáo để các sản phẩm trở thành thương hiệu không chỉ đại diện cho TP Hồ Chí Minh và cả nước cũng là sự động viên rất lớn với đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp.

Một chiến lược tăng sức cạnh tranh của hàng Việt Nam, trong đó có TP Hồ Chí Minh được hoạch định và triển khai trong một chiến lược có tính quốc gia mới có thể giúp DN trụ vững trong cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt khi nước ta thực hiện đầy đủ các cam kết kinh tế quốc tế.

BĂNG CHÂU