Nhiều vi phạm trong quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng

NDO - Kết quả kiểm toán chuyên đề việc quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng (Quỹ) giai đoạn 2020-2022 tại Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang, Hải Phòng do Kiểm toán Nhà nước công bố ngày 26/9/2023 cho thấy công tác này để xảy ra những sai phạm, cần có giải pháp chấn chỉnh, khắc phục.
0:00 / 0:00
0:00
(Ảnh minh họa)
(Ảnh minh họa)

Những phát hiện chính

Cụ thể, trừ Hải Dương, 3/4 địa phương đã thành lập Quỹ để thực hiện nhiệm vụ quản lý, sử dụng tiền dịch vụ môi trường rừng và các nguồn tài chính hợp pháp khác phục vụ bảo vệ và phát triển rừng, phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn theo đúng quy định của pháp luật.

Từ khi thành lập Quỹ đến ngày 31/3/2023, các tỉnh Quảng Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và thành phố Hải Phòng đã phê duyệt phương án thu tiền trồng rừng thay thế để chuyển đổi hơn 5.470ha sang mục đích khác, diện tích rừng phải trồng thay thế 5.607 ha, diện tích rừng đã trồng thay thế 3.341ha (bằng 60% so diện tích phải trồng); diện tích còn phải trồng rừng thay thế 2.274ha.

Về tình hình thu, chi Quỹ tính đến ngày 31/3/2023: Tổng số thu trong kỳ 541.236 triệu đồng; số đã chi là 106.956 triệu đồng; số dư cuối kỳ là 517.979 triệu đồng, trong đó, số thu tiền trồng rừng thay thế đã quá thời hạn 12 tháng kể từ ngày chủ dự án nộp tiền nhưng địa phương không bố trí được hoặc chưa bố trí đủ diện tích đất trồng rừng thay thế 275.318 triệu đồng phải nộp về Quỹ Bảo vệ và phát triển Việt Nam.

Kết quả kiểm toán cũng cho thấy có tình trạng địa phương có tiền nhưng thiếu đất để thực hiện trồng rừng thay thế; tính thiếu đơn giá trong phương án trồng rừng thay thế; chưa nộp hoặc chậm nộp tiền trồng rừng thay thế.

Những bất cập chính sách về quy định hệ số K1 điều chỉnh mức chi trả dịch vụ môi trường rừng đối với trữ lượng rừng trồng; quy định xử phạt vi phạm hành chính, tính lại đơn giá tại thời điểm nộp, phạt chậm nộp khi phát sinh trường hợp chậm nộp tiền trồng rừng thay thế đã gây ra sự bất bình đẳng về pháp luật giữa đơn vị tuân thủ pháp luật và đơn vị chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật.

Kiến nghị các giải pháp khắc phục

Từ kết quả kiểm toán chuyên đề, Kiểm toán Nhà nước đã kiến nghị nhiều giải pháp chấn chỉnh, khắc phục bất cập trong việc trong quản lý, sử dụng Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2020-2022.

Theo đó, các địa phương cần kiểm tra, rà soát để khắc phục, xử lý và xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân có liên quan để xem xét xử lý theo đúng quy định của pháp luật đối với các nội dung cụ thể của từng địa phương.

Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị tỉnh rà soát việc phê duyệt đơn giá và chấp thuận nộp tiền trồng rừng khi chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác cho các chủ dự án (giai đoạn từ 30/8/2021 đến hết năm 2022) trong đó đơn giá trồng rừng thay thế tính thiếu định mức sử dụng công cụ thủ công và chưa có hạng mục chi phí dự phòng theo quy định.

Rà soát việc không áp dụng đơn giá quy định tại Quyết định số 39/2020/QĐ-UBND ngày 30/11/2020 khi phê duyệt đơn giá thu tiền trồng rừng thay thế đối với các phương án trồng rừng thay thế; chưa bố trí kế hoạch trồng rừng thay thế đối với diện tích đã chuyển đổi mục đích, đã thu tiền trồng rừng thay thế; trong đó 1.297ha đã quá thời hạn 12 tháng kể từ khi chủ dự án hoàn thành nộp tiền trồng rừng thay thế nhưng địa phương chưa báo cáo, chưa chuyển tiền về Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam.

Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị Ủy ban nhân dân tỉnh kiểm tra, rà soát việc 2 dự án đến thời điểm kết thúc kiểm toán chưa hoàn thành nghĩa vụ tài chính về tiền trồng rừng thay thế, chưa có quyết định của cấp có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng rừng nhưng đã thực hiện giải phóng mặt bằng trên diện tích đất có rừng, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã ban hành quyết định thu hồi đất rừng, chuyển mục đích sử dụng đất và cho thuê đất để các chủ dự án khai thác khoáng sản, khai thác đất đồi.

Rà soát việc áp dụng đơn giá quy định tại Quyết định 20 trong giai đoạn 2020-2022 để phê duyệt phương án thu tiền trồng rừng thay thế khi các căn cứ xây dựng Quyết định 20 không còn phù hợp; việc phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán trồng rừng thay thế, trong đó xác định dự toán đơn giá cây giống thông mã vĩ cao hơn hơn từ 1,95 lần đến 2 lần so đơn giá quy định tại Quyết định 20.

Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Giang, Kiểm toán Nhà nước đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh kiểm tra, rà soát để khắc phục, xử lý theo đúng quy định của pháp luật đối với việc chưa ban hành quyết định chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác tại 35 dự án đã nộp tiền trồng rừng thay thế.

Kiểm toán Nhà nước cũng đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang chấn chỉnh, rút kinh nghiệm và xử lý theo đúng quy định của pháp luật đối với tập thể, cá nhân có liên quan trong việc Quyết định chủ trương (tại Văn bản số 448/HĐND-CTHĐND ngày 23/8/2021 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang) chuyển mục đích sử dụng 2,04ha đất rừng phòng hộ sang mục đích khác cho Công ty Cổ phần Tập đoàn khoáng sản Á Cường khai thác khoáng sản thuộc địa bàn xã Phong Minh và xã Sa Lý, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang, thuộc khu vực cấm khai thác khoáng sản theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 28 Luật Khoáng sản trước khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản tại Quyết định 219.

Đối với Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm toán Nhà nước kiến nghị khẩn trương hoàn thành việc xây dựng bản đồ lưu vực nơi cung ứng dịch vụ môi trường rừng, xác định diện tích rừng được chi trả và đối tượng được chi trả tiền cung ứng dịch vụ môi trường rừng trên địa bàn thành phố theo đúng quy định của Luật Lâm nghiệp và các văn bản hướng dẫn;

Thành phố tổ chức thực hiện kiểm tra, rà soát, xác định đầy đủ, đúng quy định các đối tượng có sử dụng dịch vụ môi trường rừng để bảo đảm thu đầy đủ, đúng quy định, kịp thời tiền dịch vụ môi trường rừng theo quy định của Luật Lâm nghiệp, Nghị định 156.

Chấn chỉnh rút kinh nghiệm, thực hiện đúng quy định trong việc không giao Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng thành phố Hải Phòng chủ trì xây dựng bản đồ chi trả dịch vụ môi trường rừng theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 61 Nghị định số 156/2018/NĐ-CP ngày 16/11/2018 của Chính phủ khi phê duyệt Đề án thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng thành phố Hải Phòng.