Buổi tọa đàm nhằm góp phần hoàn thiện Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Trung Bộ và Kết luận số 25-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW, đồng thời tìm ra những giải pháp nhằm giải quyết nút thắt phát triển của khu vực Vùng kinh tế trọng điểm miền trung.
Đồng chí Trần Tuấn Anh, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết và đồng chí Phan Việt Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam; đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Phó Trưởng Ban Thường trực Ban Chỉ đạo chủ trì Tọa đàm.
Tham dự có các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, đại diện lãnh đạo các tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định; đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành Trung ương, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập xây dựng Đề án; đại diện lãnh đạo một số sở, ban, ngành thuộc các tỉnh, thành phố Vùng kinh tế trọng điểm miền trung; một số một số chuyên gia, nhà khoa học và doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
Tại buổi tọa đàm, các cấp ủy, chính quyền, các nhà quản lý, nghiên cứu, khoa học đã cùng trao đổi, thảo luận và thống nhất về tính cấp thiết trong hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm thúc đẩy liên kết phát triển Vùng kinh tế trọng điểm miền trung trong bối cảnh mới. Nhiều giải pháp mang tính căn cơ, hữu hiệu đã được đề xuất.
Lấy quy hoạch vùng làm cơ sở pháp lý
Trong khuôn khổ Tọa đàm, Bí thư 5 tỉnh, thành phố: Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định đã đề cập tới nhiều nội dung; trong đó cơ bản thống nhất đánh giá việc thành lập Hội đồng vùng hay Tổ Điều phối vùng không phải là vấn đề quan trọng mà quan trọng là thể chế, cơ chế để các tổ chức này hoạt động. Bởi theo các đại biểu, khu vực miền trung đã chủ động thành lập Ban Điều phối vùng nhưng chỉ hoạt động thực chất được một thời gian, sau đó không phát huy được hiệu quả như kỳ vọng
Theo Bộ kế hoạch và Đầu tư cần triển khai Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 57/NQ-CP ngày 21/4/2022 về các nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện thể chế liên kết vùng kinh tế-xã hội, giai đoạn 2021-2030, thể chế liên kết vùng lấy quy hoạch vùng làm cơ sở pháp lý là trung tâm để điều phối các hoạt động liên kết vùng; phát huy vai trò điều phối, có tính then chốt và hiệu quả của chính quyền Trung ương. Như vậy, hiện nay có 6 vùng kinh tế, tương ứng sẽ có 6 quy hoạch vùng, thể chế liên kết vùng sẽ thực hiện trên cơ sở 6 quy hoạch vùng được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Thành lập Hội đồng điều phối vùng cho từng vùng kinh tế-xã hội trên cơ sở kế thừa mô hình Hội đồng điều phối vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hội đồng điều phối vùng không phải là một cấp hành chính mà chỉ là một tổ chức được Chính phủ và các địa phương trong vùng ủy quyền thực hiện một số chức năng, nhiệm vụ có liên quan đến liên kết phát triển kinh tế-xã hội của Chính phủ và các địa phương trong vùng. Hội đồng điều phối vùng là tổ chức phối hợp liên ngành do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập, thực hiện chức năng tham mưu, đề xuất với Thủ tướng Chính phủ và giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều phối, kiểm tra, giám sát việc thực hiện liên kết vùng, phát triển bền vững vùng, bao gồm cả phát triển vùng kinh tế trọng điểm.
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư việc liên kết phải dựa trên các quan điểm: Lấy quy hoạch vùng làm cơ sở pháp lý, là trung tâm để điều phối các hoạt động liên kết vùng; phát huy vai trò điều phối, có tính then chốt và hiệu quả của chính quyền Trung ương. Huy động sự tham gia và gắn kết giữa các bên tham gia liên kết vùng trên cơ sở tôn trọng, hài hòa lợi ích, khuyến khích sự linh hoạt và sáng tạo, bảo đảm tạo lập và củng cố sự tin tưởng lẫn nhau.
Xây dựng bộ máy vùng có đủ thẩm quyền, năng lực và nguồn lực để thực hiện hiệu quả vai trò chỉ đạo, điều phối và tạo thuận lợi cho các chính quyền địa phương thực hiện liên kết vùng. Thực hiện liên kết vùng trên một số lĩnh vực quan trọng: Phát triển cơ sở hạ tầng vùng; quản lý và khai thác nguồn nước; thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường; phát huy văn hóa dân tộc; phòng, chống tội phạm,...
Theo Bộ Xây dựng, liên kết vùng giai đoạn 2021-2030 phải bảo đảm hướng tới mục tiêu tăng cường vai trò điều phối liên kết vùng của chính quyền Trung ương, tạo kênh thông tin, thúc đẩy liên kết chính quyền địa phương trong vùng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh vùng, huy động đa dạng các nguồn lực để hỗ trợ các hoạt động, dự án liên kết vùng, tận dụng nội lực và ngoại lực của các địa phương trong vùng, bảo đảm phát triển kinh tế-xã hội vùng bền vững. Liên kết các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh; đổi mới phân cấp và nâng cao hiệu quả phối hợp trong quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế địa phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của vùng, từng địa phương.
Vì vậy, Bộ Xây dựng đề nghị 5 địa phương trong vùng tập trung thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ giải pháp theo tinh thần Nghị quyết số 06-NQ/TW của Bộ chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam.
Cụ thể là đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho quá trình đô thị hóa, công tác quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển đô thị bền vững. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, trong đó xác định biển là trung tâm để tính toán quy hoạch. Trên cơ sở quy hoạch được duyệt, triển khai xác định khung phát triển chiến lược cho toàn vùng, xác định những ưu tiên đầu tư để phát triển đồng bộ và sử dụng hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt ưu tiên phát triển hệ thống logistic; hoàn thiện hệ thống giao thông kết nối bắc-nam và hệ thống đường ngang Đông-Tây kết nối liên thông các cảng biển và các tỉnh ven biển với vùng Tây Nguyên.
Nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý phát triển đô thị bền vững; tập trung xây dựng, phát triển hệ thống đô thị bền vững và đồng bộ về mạng lưới. Các tỉnh cần xây dựng hoàn chỉnh hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và kỹ thuật diện rộng theo hướng đồng bộ, hiện đại, trọng tâm là các dự án trọng, điểm nhất là giao thông tạo động lực phát triển các cực tăng trưởng, vùng đô thị, đô thị lớn, kết nối nông thôn-đô thị.
Xây dựng và hoàn thiện mô hình chính quyền đô thị; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị và chất lượng cuộc sống đô thị, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh, an toàn và trật tự đô thị. Cuối cùng là phát triển kinh tế khu vực đô thị; đổi mới cơ chế, chính sách tài chính và đầu tư phát triển đô thị
Cũng theo ý kiến 5 tỉnh trong Vùng thì cần phải có nguồn lực để bảo đảm cho Vùng kinh tế trọng điểm. Bởi nếu đã xác định vùng trọng điểm thì phải có cơ chế để ưu tiên đột phá phát triển vùng trọng điểm, tạo sức lan tỏa và là động lực kích thích cho vùng kinh tế đã được xác định. Nên nghiên cứu phân lại vùng kinh tế trọng điểm. Bản thân 5 tỉnh, thành phố sẽ không thể đủ sức để trở thành động lực cho cả khu vực miền trung. Lâu dài phải tính đến cả các tỉnh Tây Nguyên và hiện nay mới chỉ liên kết các tỉnh theo trục dọc, chưa có liên kết ngang.
Liên kết phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Theo nhóm các nhà nghiên cứu Đại học Quốc gia Hà Nội, Vùng kinh tế trọng điểm miền trung có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh đối với cả khu vực duyên hải miền trung và Tây Nguyên nói riêng, cả nước nói chung. Đặt trong bối cảnh mới hiện nay nhu cầu về đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao vô cùng quan trọng. Trong khi đó, thực trạng phát triển nguồn nhân lực tại khu vực này còn nhiều hạn chế.
Về nguồn nhân lực trong khu vực doanh nghiệp, Vùng kinh tế trọng điểm miền trung có tỷ lệ lao động lành nghề, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp thấp; đồng thời thiếu hụt nguồn lao động chất lượng cao. Năng suất lao động còn khá thấp, dưới mức bình quân chung của cả nước (110,4 triệu đồng, năm 2019). Năng suất lao động giữa các địa phương nội vùng có sự chênh lệch đáng kể. Năng lực và trình độ công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp trong vùng còn thấp…
Từ thực tiễn, nhóm nghiên cứu Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất, phát triển nguồn nhân lực Vùng kinh tế trọng điểm miền trung cần được định hướng theo hướng chất lượng cao và đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Tính liên kết trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại vùng được thể hiện ở khía cạnh: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao nên được thực hiện ở cấp vùng hơn là cấp tỉnh”.
Do vậy, các giải pháp tổng thể cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cần được tập trung vào các nhóm: Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục bậc đại học. Tập trung phát triển Đà Nẵng thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực bậc cao cho khu vực miền trung và Tây Nguyên theo mô hình đại học vùng trọng điểm. Định hướng Thừa Thiên Huế thành trung tâm đào tạo đại học chất lượng cao cho tiểu vùng Bắc Trung Bộ.
Cùng đó, các địa phương trong vùng cần tập trung nguồn lực nâng cao chất lượng công tác đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, nhất là chú trọng xây dựng một hệ thống đào tạo với các nội dung học tập và phương tiện thực hành hiện đại, với các ngành nghề phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế ngành, địa phương và của toàn vùng.
Các địa phương cần thúc đẩy áp dụng những tiến bộ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong nâng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng tham gia vào các hoạt động của nền kinh tế. Giải pháp này nhằm giúp người lao động vượt qua rào cản lớn nhất hiện nay đối với việc tiếp thu, sử dụng thành thạo và hiệu quả công nghệ, nhất là công nghệ mới; thúc đẩy thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn chất lượng từ bên ngoài vào vùng trong thời gian tới, nhất là vốn FDI.
Chính quyền các địa phương trong vùng cũng cần tạo môi trường thuận lợi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đào tạo nghề cho người lao động trong doanh nghiệp, có cơ chế khuyến khích người lao động phát huy trí tuệ, tham gia nghiên cứu và mạnh dạn đề xuất các giải pháp cải tiến kỹ thuật. Có chính sách ưu đãi đối với đội ngũ các nhà khoa học, nhất là ưu đãi đặc biệt đối với đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia công nghệ quốc tế đến công tác dài hạn tại các địa phương nội vùng.
Từ nhận định tiềm năng phát triển du lịch Vùng kinh tế trọng điểm miền trung, nhóm các tác giả Đại học Huế bổ sung các giải pháp nhằm đẩy mạnh liên kết đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho du lịch. Theo đó, cần tiếp tục đổi mới và phát triển hợp tác quốc tế nhằm tiếp cận chuẩn mực giáo dục, đào tạo tiên tiến của khu vực và thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển địa phương. Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá loại hình hợp tác. Liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo du lịch và doanh nghiệp du lịch để đào tạo theo nhu cầu của các đơn vị sử dụng lao động. Liên kết chặt chẽ với chính quyền các cấp và các doanh nghiệp du lịch để phối hợp thực hiện đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp. Đổi mới nội dung các chương trình đào tạo du lịch theo hướng học đi đôi với hành, khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, khả năng phân tích, dự báo, khả năng nghiên cứu khoa học, đào tạo kỹ năng mềm, đẩy mạnh các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phát triển tư duy, năng lực thực hành của sinh viên du lịch…
Kết luận buổi Tọa đàm, đồng chí Trần Tuấn Anh cảm ơn các đồng chí Bí thư, lãnh đạo các tỉnh, thành phố Vùng kinh tế trọng điểm miền trung; đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, thành viên Ban Chỉ đạo, Tổ Biên tập xây dựng Đề án, đặc biệt là các chuyên gia, nhà khoa học đã tham dự Tọa đàm và có nhiều ý kiến trao đổi, thảo luận tâm huyết, trách nhiệm, chất lượng. Đồng chí giao Thường trực Tổ Biên tập chắt lọc kết quả Tọa đàm để lựa chọn, tổng hợp, bảo đảm phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ tổng kết, nhằm tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư các chủ trương, định hướng để phát triển vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ nói chung cũng như liên kết phát triển vùng nói riêng trong thời gian tới.
Cần giải pháp cho phát triển liên kết Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung