Tham dự Tọa đàm, có các vị khách mời gồm: Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội; ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam; Tiến sĩ Trần Thọ Đạt, Chuyên gia kinh tế, Chủ tịch Hội đồng khoa học và đào tạo, Trường đại học Kinh tế Quốc dân (tham dự theo hình thức trực tuyến); ông Nguyễn Việt Anh, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng TP Bank.
Thời gian qua, các cơ chế, chính sách về quản lý, phát triển thị trường vàng ở nước ta được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan chức năng đặc biệt quan tâm, không ngừng bổ sung và hoàn thiện. Qua đó, thị trường vàng cơ bản có sự phát triển ổn định, có những đóng góp hết sức hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như mang lại lợi ích thiết thực cho người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư.
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tăng cường các giải pháp quản lý thị trường vàng
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, thị trường vàng của Việt Nam cũng còn những tồn tại, bất cập trong công tác quản lý, xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau liên quan đến cơ chế, chính sách, tâm lý người dân, doanh nghiệp, nhà đầu tư…
Từ đó đã kiếm một lượng lớn kim loại quý hiếm này bị "đóng băng", chôn chặt trong két của người dân; không có sự liên thông, liên hoàn giữa thị trường vàng trong nước với thị trường vàng thế giới; biên độ, sự chênh lệnh về giá vàng giao dịch trong nước và thế giới ở một số thời điểm là rất lớn; nhiều hoạt động trong giao dịch của thị trường vàng còn méo mó; xuất hiện các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, trục lợi, đầu cơ, thao túng vàng để trục lợi…
Vừa qua, trước những diễn biến phức tạp của thị trường trong nước làm giá vàng biến động mạnh, tăng cao, khoảng cách chênh lệnh giữa giá vàng trong nước và thế giới lớn, có thể gây nên những rủi ro, tác động tiêu cực đến sự an toàn của thị trường tài chính, tiền tệ, nền kinh tế và tâm lý xã hội… Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành Công điện 1426/CĐ-TTg ngày 27/12/2023 về các giải pháp quản lý thị trường vàng với những yêu cầu, nhiệm vụ rất quyết liệt, đồng bộ và cụ thể đối với các bộ, ngành chức năng, trong đó nhấn mạnh yêu cầu: "Dứt khoát không để tình trạng 'vàng hóa' nền kinh tế, không để tác động tiêu cực đến tỷ giá, lãi suất, thị trường tiền tệ, ngoại hối và an toàn, an ninh tài chính, tiền tệ quốc gia".
Dứt khoát không để tình trạng 'vàng hóa' nền kinh tế
Theo GS.TS Hoàng Văn Cường, Đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội, việc Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2012/NĐ-CP nhằm hạn chế tình trạng "vàng hóa", dùng vàng để thay thế các công cụ thanh toán là rất kịp thời. Trên thực tế, những năm qua, Nghị định số 24/2012/NĐ-CP đã phát huy tác dụng khá tốt. Gần như chúng ta đã chấn chỉnh được tình trạng dùng vàng làm công cụ giao dịch.
GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội, Ủy viên Ủy ban Tài chính ngân sách của Quốc hội. (Ảnh: VGP) |
Tuy nhiên, đến nay, tình hình đã thay đổi rất nhiều. Về kinh tế vĩ mô, về quan hệ tài chính, tiền tệ, quan hệ quốc tế… có rất nhiều thay đổi. Trong những thay đổi như thế, chúng ta vẫn đang duy trì Nghị định số 24/2012/NĐ-CP. Nghị định số 24/2012/NĐ-CP này quy định rất chặt chẽ: Nhà nước là cơ quan độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền trong quản lý xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu để sản xuất vàng miếng.
Thực tế những năm qua, hầu như Nhà nước lấy một thương hiệu vàng SJC là thương hiệu vàng quốc gia. Vàng ngoài độc quyền thì đáng sản xuất vẫn phải sản xuất, phải cung ra, nhưng trên thực tế thì hầu như không có chuyện sản xuất thêm vàng miếng. Chính vì vậy, tâm lý của người dân Việt Nam chúng ta từ xưa đến nay liên quan đến chuyện tích trữ để bảo đảm an toàn, phòng tránh rủi ro. Và trong các phương tiện tích trữ thì đương nhiên vàng là một phương tiện tích trữ bảo đảm nhất. Đấy là cả thế giới chứ không riêng Việt Nam nhưng Việt Nam thì tâm lý truyền thống đó cao hơn.
Trong bối cảnh người ta cần có tích lũy như thế mà vàng miếng là vàng tích lũy, vàng SJC lại được xác định là vàng thương hiệu quốc gia thì đương nhiên người dân tích lũy sẽ chọn vàng tin cậy nhất. Mặc dù SJC và các vàng miếng khác có thể cùng chất lượng như nhau nhưng đây là vàng thương hiệu quốc gia thì đương nhiên đấy là vàng được tin cậy. Tích lũy bao giờ cũng bảo đảm an toàn nhất nên người ta đều mong muốn mua, tích lũy, sở hữu vàng SJC. Trong khi cung không có mà cầu có thực thì đương nhiên sẽ dẫn đến tình trạng mất cân đối cung cầu và giá vàng sẽ tăng.
Vàng không có nhập khẩu có nghĩa là gì? Chúng ta không có chuyện liên thông. Ví dụ trong nước giá cao, chúng ta nhập khẩu vào để cân bằng. Nếu trong nước giá thấp, thế giới giá cao, xuất khẩu ra để cân bằng. Nhưng đây không có quan hệ xuất nhập khẩu như thế. Như vậy không có việc chúng ta cân bằng được giữa thị trường vàng trong nước và thế giới dẫn đến tình trạng thế giới có thể tăng một chút thì trong nước tăng rất cao. Như chúng ta biết, có những thời kỳ tăng đến 20 triệu một lượng. Điều này là rất phi lý.
Khi có tình trạng không liên thông dẫn đến tăng như thế, rõ ràng hậu quả xảy ra sẽ rất lớn. Đầu tiên, đương nhiên những người có nhu cầu sở hữu vàng, cất trữ vàng sẽ bị thiệt hại, phải mua vàng với một cái giá rất cao.
Thứ hai, không bình đẳng giữa những vàng miếng như nhau, có thể chất lượng cùng 9999 như nhau nhưng vàng SJC Nhà nước bảo hộ thì giá rất cao. Các vàng khác không được bảo hộ thì đương nhiên giá sẽ thấp.
Thứ ba, sẽ nguy hại không phải chỉ riêng cho người dân mà còn thiệt hại về mặt xã hội. Khi giá vàng trong nước và giá vàng thế giới chênh lệch nhiều đến như thế sẽ sinh lợi cho việc nhập lậu vàng. Nhà nước không cấp phép nhập vàng thì người ta sẽ buôn lậu.
Thực tế cho thấy khi lợi nhuận càng cao, tình trạng buôn lậu sẽ diễn ra càng lớn bởi vì giữa lợi nhuận và xác suất bị phát hiện khi buôn lậu, người ta sẵn sàng buôn lậu vì dù có thể bị bắt giữ, người ta vẫn có thể bù lại được. Buôn lậu tăng lên như thế thì rõ ràng không thể nói chúng ta quản lý tốt thị trường vàng được, thất thu thuế, không tạo ra một thị trường cạnh tranh minh bạch, bình đẳng. Và đã buôn lậu thì sẽ vẫn có tình trạng thất thoát về ngoại tệ. Chúng ta không quản lý được ngoại tệ cũng có thể dẫn đến chuyện quản lý tỷ giá.
Ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam. (Ảnh: VGP) |
Ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam: Theo thông lệ quốc tế, người ta coi vàng là một loại hàng hóa. Và quy định có hai loại vàng là vàng vật chất và vàng phi vật chất. Vàng vật chất bao gồm vàng thỏi, vàng miếng, đồng tiền vàng, trang sức. Còn vàng phi vật chất bao gồm vàng tài khoản và các chứng chỉ về vàng được giao dịch rất thông dụng trên thị trường. Trong Nghị định 24/2012/NĐ-CP chỉ đề cập đến vàng vật chất, đặc biệt vàng miếng được chọn là thương hiệu quốc gia và được Nhà nước độc quyền sản xuất và kinh doanh.
Cần thay đổi phương thức quản lý vàng
Đứng trước tình trạng đó, GS.TS. Hoàng Văn Cường đề xuất, trong tình hình hiện nay, rất cần có sự thay đổi về phương thức quản lý. Chắc chắn chúng ta phải nghĩ đến chuyện thay đổi, sửa đổi quy định Nghị định số 24/2012/NĐ-CP. Chẳng hạn, bây giờ không nhất thiết phải độc quyền nhà nước về một thương hiệu vàng. Có lẽ vàng là một hàng hóa khá thông thường, mọi người đều có thể sử dụng và Nhà nước quản lý mặt hàng này rất dễ, không nhất thiết phải độc quyền. Tôi cho rằng phải xem lại xem có nhất thiết phải độc quyền hay không. Rồi chúng ta có thể cho nhiều doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất vàng miếng để đáp ứng nhu cầu của người dân. Khi cung được tự do, được cạnh tranh bình đẳng thì người dân tiếp cận vàng tích lũy sẽ dễ hơn, sẽ không còn tình trạng khan hiếm nữa.
Yếu tố nữa là cần có liên thông giữa thị trường trong nước và quốc tế. Thị trường vàng là một thị trường liên thông quốc tế rất mạnh. Sự biến động của thị trường quốc tế ngày hôm nay thế này thì thị trường quốc gia khác biến động ngay lập tức. Vậy thì chúng ta cũng phải bỏ các công cụ để liên thông thị trường vàng trong nước với quốc tế, chẳng hạn như vấn đề xuất nhập khẩu. Tất nhiên, xuất nhập khẩu ở đây phải có phương thức quản lý phù hợp. Không phải cứ duy trì một cơ chế như trước đây là cấp phép, cấp quota theo dạng "xin-cho" mà có thể sử dụng các công cụ tài chính để điều tiết quan hệ xuất nhập khẩu đó. Tất nhiên phải quản lý để tránh tình trạng ồ ạt dùng ngoại tệ nhập vàng vào cho mục đích khác, làm mất cân đối ngoại tệ, mất khả năng điều hành tỉ giá.
Và chúng ta cũng phải có các phương thức giao dịch đa dạng hơn chứ không phải người dân ai cũng mong muốn tích trữ thì cứ việc quay sang mua vàng miếng. Đấy người ta gọi là sử dụng, mua bán vàng vật chất. Trong Nghị định số 24/2012/NĐ-CP cũng có một điều xác định vấn đề kinh doanh vàng trên tài khoản, nhưng toàn bộ nội dung không hề mở ra một chút nào về vấn đề kinh doanh tài khoản nên trong nước chỉ có chuyện mua bán vàng vật chất. Trong khi đó, bây giờ xu thế giao dịch của thế giới là mở ra phương thức kinh doanh trên sàn kinh doanh thông qua hợp đồng kinh doanh, thông qua các tín chỉ về vàng.
Vậy nếu chúng ta mở thêm các hình thức kinh doanh vàng qua tài khoản thì khi đó sẽ không bị lệ thuộc quá vào việc nhập khẩu nhiều vàng vào hay ít vàng vào mới có vàng mà người ta có thể sử dụng các công cụ như công cụ phái sinh sẽ cân đối được ngay cung cầu.
Như vậy chúng ta sẽ điều hành rất linh hoạt và đặc biệt khi đó không còn tình trạng người dân mua vàng về xong để trong nhà tích trữ, làm chết một khối lượng tiền ở đấy. Khi chúng ta giao dịch vàng trên tài khoản thì người ta không nhất thiết phải mang vàng về nhà, không phải mất công cất trữ, vàng đó được lưu thông ở trên thị trường, sẽ tạo ra sinh lợi, tạo nguồn vốn đưa vào lưu thông, mang lại nhiều tác động tốt cho nền kinh tế cũng như bảo đảm lợi ích của mỗi người dân.
Ông Nguyễn Thế Hùng, Phó Chủ tịch Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam: Trên thế giới, theo khảo sát của chúng tôi và rất nhiều hội thảo, đồng thời cũng đã có cuộc làm việc với Hội đồng Vàng Thế giới đều khẳng định rất rõ là các nước trên thế giới, kể cả các nền kinh tế lớn, các ngân hàng Trung ương không quản lý trực tiếp về kinh doanh vàng bởi họ quan niệm vàng là một loại hàng hóa thông thường.
Tại các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan thì có Bộ Thương mại hoặc Bộ Công thương, Bộ Kinh tế quản lý. Ngân hàng Nhà nước chỉ quản lý về ngoại hối, điều tiết các dòng tiền ngoại tệ. Và các ngân hàng Trung ương ở các nước chỉ có vai trò dự trữ quốc gia, điều phối vàng như là một tài sản để dự trữ quốc gia. Đây là một công cụ để bảo đảm an ninh tiền tệ. Như vậy, ngân hàng Trung ương ở các nước không trực tiếp quản lý vàng.
Chính vì thế, vai trò như là ngân hàng Trung ương trong Nghị định 24 phát huy trong thời điểm mà thị trường vàng có những lộn xộn. Đến bây giờ, chúng ta vẫn duy trì việc độc quyền SJC sẽ dẫn đến sự chênh lệch rất lớn về giá vàng, mà thực tế đã chứng minh như vậy.
Ở Việt Nam, người dân coi vàng như là một phương tiện để tích trữ và phòng ngừa lạm phát, rủi ro. Nhưng chúng ta cũng thấy, đến bây giờ, giá trị đồng tiền Việt Nam rất ổn định; tỷ giá cũng rất ổn định. Chính vì thế người dân không dùng vàng để làm phương tiện thanh toán và không có khái niệm "vàng hóa". Bây giờ trên thị trường, không ai sử dụng vàng làm phương tiện thanh toán nữa.
Vì thế, nếu chúng ta không khuyến khích người dân tích trữ vàng miếng nữa, theo chủ trương của Nhà nước là tập trung vào sản xuất trang sức để tăng giá trị thặng dư, tập trung vốn vào sản xuất và xuất nhập khẩu, thì phải xem xét lại cách thức quản lý thị trường vàng hiện nay. Nếu chúng ta quan niệm giống như các nước trên thế giới, vàng là một loại hàng hóa thì Ngân hàng Nhà nước không quản lý trực tiếp thị trường vàng nữa.
Chuyên gia kinh tế Trần Thọ Đạt tham gia Tọa đàm theo hình thức trực tuyến. (Ảnh: VGP) |
Chuyên gia kinh tế Trần Thọ Đạt đánh giá Công điện 1426/CĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ra đời vào ngày 27/12/2023 rất đúng lúc, nhất là trong lúc thị trường vàng trong nước so với thị trường vàng quốc tế có sự biến động rất mạnh về giá. Vấn đề cần quan tâm ở đây là sự chênh lệch giữa vàng miếng SJC với giá vàng quốc tế hiện nay đang ở mức rất cao thì Công điện 1426 cũng chỉ rõ nguyên tắc là phải điều hành theo cơ chế thị trường, phải khơi thông cung-cầu; và đặc biệt, thị trường vàng trong nước phải liên thông, bảo đảm phù hợp với biến động của giá vàng thế giới.
Như vậy, định hướng về giải pháp ở đây rất rõ ràng. Vấn đề là cách làm hiện nay như thế nào.
Ông Trần Thọ Đạt cho rằng, về điều hành theo cơ chế thị trường, tức là chúng ta cần phải làm cho cung-cầu gần nhau theo hướng không chênh lệch giữa giá vàng thế giới so với giá vàng trong nước. Theo ông, nếu Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phải độc quyền vàng miếng SJC thì cần gia tăng Quỹ dự trữ vàng và sẵn sàng tăng cung vàng miếng một khi giá vàng SJC cao hơn bất thường so với giá vàng thế giới để bình ổn giá.
Ông Nguyễn Thế Hùng đánh giá, chủ trương của Ngân hàng Nhà nước không khuyến khích người dân mua bán vàng miếng, tích trữ vàng miếng là rất đúng đắn và chúng ta cần phải bám sát theo chủ trương này để có biện pháp. Tức là khi nhập khẩu vàng không phải để phục vụ sản xuất vàng miếng và khi người dân không quan trọng việc mua vàng 9999 hay vàng miếng, vàng trang sức nữa thì rõ ràng sẽ không có chênh lệch.
Theo ông Hùng, còn một thực tế nữa là hiện nay giá vàng trang sức 9999 trên thị trường vẫn chênh lệch so với giá thế giới khoảng 2,5-3 triệu đồng bởi vì không có nguồn cung, mà trong lịch sử chưa có việc này. Tôi nghĩ rằng Nhà nước cần xem xét để giúp các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất, có đầu ra hẳn hoi.
Những doanh nghiệp có năng lực sản xuất tốt về vàng trang sức như SJC, DOJI hoặc PNJ thì nên khuyến khích tạo điều kiện để họ có nguồn nguyên liệu chính thống phục vụ cho sản xuất cung ứng cho thị trường. Như vậy sẽ thu hẹp được khoảng cách giữa giá vàng nguyên liệu, giá vàng 9999 với giá quốc tế. Và khi cho nhập khẩu nguyên liệu sản xuất vàng trang sức thì Nhà nước quản lý rất dễ bởi có đầu ra rất rõ rồi. Không cho sản xuất vàng miếng mà chỉ sản xuất vàng trang sức thôi thì rõ ràng sẽ thu hẹp được khoảng cách giữa giá vàng nguyên liệu và giá vàng trang sức hiện nay với giá vàng quốc tế…
Cần nghiên cứu lập sàn giao dịch vàng
GS.TS Hoàng Văn Cường cho rằng, khi chúng ta có sàn vàng, người dân sẽ thay đổi tâm lý. Về tiện lợi là không phải đi xa, không phải lo cất trữ vàng, không phải lo vàng có phải 9999 thật không,… vì chứng chỉ vàng sẽ bảo đảm giá trị đúng như thế và vàng sẽ nằm trên thị trường, hàng hóa được lưu thông trên thị trường. Công cụ để điều hòa về mặt cung vàng rất rộng rãi, đặc biệt, khi giao dịch vàng trên tài khoản sẽ giúp cả các công cụ phái sinh, bán vàng theo hợp đồng bán cho tương lai, không phụ thuộc việc nhập vàng về mới có bù cho thị trường, khi đó sẽ bảo đảm phản ứng rất kịp thời. Đây là yếu tố hết sức có lợi cho cả phía người dân yên tâm vẫn có vàng nếu muốn dự trữ và cả về phía thị trường, chúng ta điều hành về mặt nhà nước, quản lý thị trường, chúng ta bảo đảm quản lý được ngoại tệ.
Thêm nữa, khi đưa vàng vào giao dịch trên thị trường, khớp lệnh công khai minh bạch, bất kể người nào tham gia vào sẽ biết ngay thị trường có bao nhiêu người bán, mua… Thông tin minh bạch giúp người tham gia vào thị trường dễ đưa quyết định sáng suốt hơn, đặc biệt Nhà nước kiểm soát sẽ tốt. Một điểm quan trọng nữa, rất cần liên thông thị trường vàng trong nước và thế giới, nếu chúng ta có thị trường vàng giao dịch tài khoản trên sàn thì việc liên thông sẽ rất dễ, không nhất thiết phải nhập khẩu về mà có thể đặt lệnh mua bán là trao đổi được ngay vàng thế giới, việc đó tạo ra cân bằng giá với thị trường giao dịch thế giới.
Việc lập sàn giao dịch vàng, ông Cường cho rằng là rất cần tính đến. Tất nhiên, vàng là hàng hóa đặc biệt, không phải hàng hóa thông thường nên cần tính tới phương thức quản lý như thế nào. Những năm trước đây có tình trạng nhiều cá nhân, tổ chức giao dịch sàn vàng quốc tế, rủi ro xảy ra rất nhiều. Giao dịch vàng cần nghiệp vụ rất sâu, không phải ai cũng tham gia được, nếu không cẩn trọng, có thể xảy ra khủng hoảng, thiệt hại cho dân.
Chúng ta cần tính tới mô hình sàn vàng như thế nào, có lẽ không phải mô hình như bán hàng hóa thông thường, ai mua cũng được mà phải đưa vào từng cấp độ, thí dụ, sàn sơ cấp, chỉ có một số nhà kinh doanh rất chuyên nghiệp mới giao dịch ở đó và thông qua liên thông quốc tế; còn sàn thứ cấp dành cho mua bán lẻ, có thể mua bán tự do trong nước, để chúng ta phòng ngừa rủi ro. Rồi khuôn khổ pháp lý như thế nào để kiểm soát, công nghệ thông tin để bảo đảm hàng hóa trên sàn…
Đó là những vấn đề chúng ta cần quan tâm để tạo ra khung khổ pháp lý và điều kiện hoạt động để có thể phát triển lành mạnh cả thị trường vàng vật chất và thị trường vàng trên sàn.