Đẩy mạnh khai thác tín chỉ các-bon rừng

Hình thành thị trường các-bon trong nước và tham gia thị trường các-bon thế giới sẽ tạo ra nguồn tài chính bổ sung cho ngành lâm nghiệp để đầu tư trực tiếp vào rừng, giúp gia tăng thu nhập cho các chủ rừng.
0:00 / 0:00
0:00
Lực lượng kiểm lâm phối hợp với chủ rừng chăm sóc bảo vệ rừng trồng tại xã Đồng Vương, huyện Yên Thế (Bắc Giang). (Ảnh VŨ SINH)
Lực lượng kiểm lâm phối hợp với chủ rừng chăm sóc bảo vệ rừng trồng tại xã Đồng Vương, huyện Yên Thế (Bắc Giang). (Ảnh VŨ SINH)

Kết quả giảm phát thải sẽ góp phần nâng cao năng suất, chất lượng rừng, giá trị sinh thái của rừng, cải thiện sinh kế bền vững.

Bổ sung nguồn lực

Cục trưởng Lâm nghiệp Trần Quang Bảo cho biết, hiện nay, Việt Nam chưa có thị trường bắt buộc với tín chỉ các-bon rừng. Việc chuyển giao kết quả giảm phát thải được thực hiện thông qua các thỏa thuận đàm phán song phương giữa các bên liên quan theo thị trường tự nguyện.

Đối với thị trường tín chỉ các-bon rừng, hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn được Thủ tướng Chính phủ giao triển khai hai thoả thuận chuyển nhượng kết quả giảm phát thải, gồm: ERPA Bắc Trung Bộ và ERPA Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Thỏa thuận ERPA Bắc Trung Bộ thực hiện chuyển nhượng lượng giảm phát thải 10,3 triệu tấn các-bon ở sáu tỉnh thuộc khu vực giai đoạn 2018-2024 cho FCPF, với tổng số tiền là 51,5 triệu đô-la Mỹ; khoảng 95% kết quả chuyển nhượng sẽ được chuyển giao lại cho Việt Nam để đóng góp vào cam kết quốc gia về giảm phát thải khí nhà kính (NDC).

Tuy nhiên, theo Báo cáo kết quả giảm phát thải kỳ 1 (giai đoạn 2018-2019) đã được WB xác nhận, kết quả giảm phát thải vùng Bắc Trung Bộ đạt được 16,21 triệu tấn CO2. Việt Nam hoàn thành chuyển nhượng 10,3 triệu tấn CO2 cho WB và đã tiếp nhận 51,5 triệu USD. Đối với 5,91 triệu tấn CO2 còn dư, WB đã đồng ý mua bổ sung 1 triệu tấn CO2. Lượng 4,91 triệu tấn còn dư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định; đồng thời tiếp tục phối hợp với WB để đo đếm, xác nhận lượng tín chỉ giai đoạn 2 (2020-2022); giai đoạn 3 (2023-2024), tìm kiếm các đối tác có nhu cầu tiếp nhận để tiến hành đàm phán chuyển nhượng, bảo đảm quyền lợi của quốc gia và huy động nguồn lực bổ sung cho công tác bảo vệ và phát triển rừng vùng Bắc Trung Bộ.

Đối với thỏa thuận ERPA Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, ngày 31/10/2021, tại COP26 dưới sự chứng kiến của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ký kết Ý định thư với Tổ chức Tăng cường tài chính lâm nghiệp (Emergent) - cơ quan nhận ủy thác của Liên minh Giảm phát thải thông qua tăng cường tài chính cho rừng (LEAF).

Theo đó, Việt Nam chuyển nhượng cho LEAF/Emergent 5,15 triệu tấn CO2 giảm phát thải từ rừng tại vùng Nam Trung Bộ và Tây Nguyên trong giai đoạn 2022-2026. LEAF/Emergent sẽ thanh toán cho dịch vụ này với giá tối thiểu là 10 USD/1 tấn CO2 với tổng giá trị là 51,5 triệu USD.

Diện tích rừng thương mại dịch vụ giảm phát thải đăng ký là 4,26 triệu ha, trong đó rừng tự nhiên 3,24 triệu ha và rừng trồng 1,02 triệu ha. Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hoàn thiện nộp hồ sơ đăng ký cấp tín chỉ theo tiêu chuẩn, đồng thời đang khẩn trương tổ chức các phiên đàm phán kỹ thuật với Tổ chức Emergent để hoàn thiện đề án đàm phán, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

Tiềm năng lớn

Theo Cục Lâm nghiệp, thị trường các-bon trên thế giới cơ bản được vận hành theo hai hình thức tự nguyện và bắt buộc. Thị trường các-bon quốc tế tự nguyện nhằm hướng đến nhu cầu tự nguyện giao dịch tín chỉ các-bon để phục vụ trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và xây dựng hình ảnh trước công chúng và tạo thêm nguồn cung tín chỉ cho thị trường các-bon nội địa.

Thị trường các-bon tự nguyện thường dựa trên cơ sở các hợp đồng, thỏa thuận hợp tác song phương hoặc đa phương giữa các tổ chức, công ty hoặc quốc gia. Do vậy giá bán tín chỉ các-bon được điều tiết bởi thị trường (cung-cầu). Hiện nay, mức giá các-bon trên thị trường tự nguyện trên thế giới thường dao động từ 2 đến 4 USD/tấn, trong đó giá các-bon trung bình của các chương trình, dự án tại khu vực châu Á biến động qua các năm.

Giá trung bình cập nhật hiện nay là 1,07 USD/tấn CO2. Thị trường các-bon nội địa (thị trường bắt buộc) do quốc gia hoặc vùng lãnh thổ quy định và được thành lập, vận hành nhằm mục tiêu thực hiện các cam kết giảm phát thải của quốc gia, vùng lãnh thổ đó.

Rừng Việt Nam nói chung và rừng Tây Nguyên nói riêng đang trở thành bể chứa các-bon quan trọng, giúp cân bằng lượng phát thải khí nhà kính, giảm tác động của biến đổi khí hậu. Phó Cục trưởng Lâm nghiệp Phạm Hồng Lượng cho biết, theo tính toán ban đầu, trữ lượng các-bon rừng toàn quốc dao động từ khoảng 1-19 tấn/ha, cá biệt có nơi đến hơn 150 tấn/ha. Khu vực rừng lá rộng thường xanh giàu vùng Tây Nguyên, Nam Trung Bộ có trữ lượng các-bon cao nhất (hơn 150 tấn/ha).

Theo đó, tổng lượng các-bon được hấp thụ và lưu giữ ở Việt Nam rất lớn, ước tính Việt Nam có thể bán ra 57 triệu tín chỉ các-bon cho các tổ chức quốc tế và mỗi năm, thu về hàng trăm triệu USD (nếu tính theo giá hiện tại là 5 USD/tín chỉ). Điều này cho thấy Việt Nam đang có một nguồn tài nguyên mới rất giàu tiềm năng. Trên thực tế, mặt hàng các-bon rừng cũng đang có nhiều dấu hiệu khởi sắc dù mới ở giai đoạn thăm dò, nghiên cứu khả thi hoặc xây dựng đề án, dự án, chưa chuyển nhượng tín chỉ các-bon rừng thành công.

Ông Nguyễn Văn Minh, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết, theo lộ trình phát triển thị trường các-bon tại Việt Nam, đến hết năm 2027 sẽ xây dựng quy định quản lý tín chỉ các-bon, các hoạt động trao đổi hạn ngạch và xây dựng quy chế vận hành sàn giao dịch.

Triển khai thí điểm cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon trong các lĩnh vực tiềm năng và hướng dẫn thực hiện. Từ năm 2028 trở đi sẽ tổ chức vận hành giao dịch tín chỉ các-bon chính thức. Ngành lâm nghiệp không chỉ đóng góp quan trọng để thực hiện các cam kết quốc tế về chống biến đổi khí hậu mà còn tạo ra nguồn tài chính có tiềm năng thông qua thương mại các-bon rừng. Chính vì vậy, hợp tác quốc tế nhằm tìm kiếm và đa dạng hóa nguồn tài chính bền vững cho ngành lâm nghiệp sẽ là giải pháp cần ưu tiên trong các chính sách biến đổi khí hậu và phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.

Giám đốc chương trình Biến đổi khí hậu, năng lượng tái tạo và phát triển các-bon thấp toàn cầu (CIFOR) Phạm Thu Thủy cho rằng, đang có nhiều tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài tìm đến Việt Nam để tìm hiểu đầu tư vào thị trường các-bon. Tuy nhiên, hiện chúng ta còn thiếu hành lang pháp lý trong lĩnh vực này, trong đó hệ thống đăng ký về quyền các-bon hay danh sách các cơ sở, dự án về các-bon cũng chưa được xây dựng vận hành để các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm, tham khảo.

Đến nay, tỉnh Quảng Nam đã xây dựng đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ các-bon rừng giai đoạn 2022-2026. Đây là địa phương đầu tiên của cả nước được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận cho lập đề án thí điểm kinh doanh tín chỉ các-bon rừng. Theo dự kiến, trong giai đoạn thí điểm, tỉnh sẽ lựa chọn nhà đầu tư tham gia dự án, để đàm phán, tiến tới ký kết hợp đồng đầu tư, thu mua tín chỉ các-bon rừng. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam cho biết, hiện đã có một số doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài quan tâm đầu tư vào lĩnh vực mới mẻ, đầy tiềm năng này.

Có thể khẳng định, tiềm năng thị trường và nhu cầu thương mại các-bon rừng tại Việt Nam là rất lớn. Để thúc đẩy thị trường các-bon rừng trên phạm vi trong nước và quốc tế, bắt buộc và tự nguyện, Việt Nam cần chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết nhằm tận dụng các cơ hội, góp phần đạt được mục tiêu Thỏa thuận Paris cũng như tiếp cận với nguồn tài chính quốc tế, góp phần nâng cao nguồn thu từ rừng, thông qua nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng, đẩy mạnh công tác quản lý, bảo vệ rừng, góp phần thúc đẩy kinh tế lâm nghiệp phát triển ổn định, bền vững...