Dù đạt những kết quả tích cực, nổi bật, song công tác thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc. Tỷ lệ thu hồi tài sản trong phần lớn các vụ án tham nhũng có tăng nhưng còn thấp so với số lượng phải thu hồi. Các cơ quan chức năng đã tập trung tiến hành đồng bộ việc đánh giá chính xác những hạn chế, vướng mắc để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cơ chế, pháp luật tạo điều kiện nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản nhà nước bị thất thoát, chiếm đoạt.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng
Theo Ban Nội chính Trung ương, kết quả kiểm tra công tác thu hồi tài sản tham nhũng tại một số đảng ủy, ban cán sự đảng và tỉnh ủy, thành ủy, đã chỉ ra những nguyên nhân hạn chế, vướng mắc. Trong đó, đối tượng phạm tội tham nhũng, kinh tế là loại tội phạm có chủ thể đặc biệt, là những người có chức vụ, quyền hạn, có trình độ học vấn, am hiểu pháp luật, có nhiều mối quan hệ cho nên có khả năng xóa dấu vết, tiêu hủy chứng cứ, tẩu tán tài sản. Các hành vi tham nhũng thường chỉ bị phát hiện sau một thời gian dài, khiến việc thu thập chứng cứ trong điều tra vụ án gặp khó khăn, phức tạp, đặc biệt là việc xác định tài sản có nguồn gốc tham nhũng.
Các quy định của pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định riêng về thẩm quyền, trách nhiệm, trình tự, thủ tục về thu hồi tài sản tham nhũng; chưa xác định rõ trách nhiệm phối hợp cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan (như ngân hàng, tài chính, đất đai, xây dựng, giao thông...) với các cơ quan chức năng trong xử lý tài sản tham nhũng. Cơ chế quản lý tài sản ở nước ta hiện nay còn thiếu chặt chẽ, thiếu minh bạch, các giao dịch kinh tế, dân sự vẫn chủ yếu bằng tiền mặt. Một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, kê khai tài sản của cán bộ, công chức chưa được kiểm tra, xác minh, kiểm chứng cho nên khó khăn trong việc xác định tài sản tham nhũng và tài sản được hình thành từ tham nhũng. Việc thu hồi tài sản tham nhũng, kinh tế có yếu tố nước ngoài gặp nhiều khó khăn; cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế chưa đầy đủ…
Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc, nhiều quy định mới về thu hồi tài sản tham nhũng đã được thể chế hóa theo chủ trương, đường lối của Đảng, tạo cơ sở pháp lý quan trọng. Trong đó, “chú trọng tới các chế tài phạt tiền nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng” được nêu tại Nghị quyết Trung ương 3, khóa X đã được thể hiện rõ qua lần sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều 40 của Bộ luật này quy định, không thi hành án tử hình đối với người bị kết án nếu: “Người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”. Quy định này vừa thể hiện sự nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước đối với người phạm tội biết ăn năn hối lỗi trả lại tài sản tham nhũng, vừa giúp công tác thu hồi tài sản tham nhũng đạt được những kết quả quan trọng.
Ngoài ra, các luật liên quan phòng, chống tham nhũng, các văn bản hướng dẫn thi hành đã có nhiều quy định điều chỉnh trực tiếp đến thu hồi tài sản tham nhũng. Trong đó, Luật Phòng, chống tham nhũng quy định, tài sản tham nhũng phải được thu hồi, tịch thu; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại thì phải bồi thường, bồi hoàn theo quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng; tài sản tham nhũng phải được trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước; người đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát hiện hành vi đưa hối lộ thì được trả lại tài sản đã dùng để hối lộ …
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các cơ quan tố tụng đã chú trọng xác minh, truy nguyên tài sản, áp dụng các biện pháp tạm giữ, kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản của các đối tượng phạm tội; động viên, khuyến khích người phạm tội tự nguyện giao nộp tài sản tham nhũng. Mới đây, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã tiến hành phiên xét xử phúc thẩm vụ án lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và các đơn vị liên quan.
Với việc nộp hàng chục tỷ đồng để khắc phục hậu quả, ông Nguyễn Đức Chung cùng các đồng phạm đã được Tòa phúc thẩm giảm mức án tù phải chấp hành. Theo đó, bị cáo Nguyễn Đức Chung được tuyên giảm 3 năm so bản án phiên sơ thẩm. Hay trường hợp bị cáo Nguyễn Bắc Son tại phiên tòa phúc thẩm đã xin khai những tình tiết mới, vận động gia đình nộp lại tài sản tham nhũng để hưởng khoan hồng theo luật định.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng về công tác này, Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ đã tập trung lãnh đạo Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành và cơ quan chức năng nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự; pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, phá sản, giá, giám định, định giá; pháp luật liên quan đến tín dụng, ngân hàng, xử lý nợ xấu, đăng ký tài sản, đấu giá tài sản công.., bảo đảm thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án nói chung, thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế nói riêng.
Về công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế, theo Bộ Tư pháp, Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014, đã quy định trực tiếp nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự trong thu hồi tài sản cho Nhà nước để kịp thời giải quyết những vướng mắc trong việc thi hành các vụ án tham nhũng, kinh tế đặc biệt nghiêm trọng.
Cụ thể hóa đường lối, chính sách của Đảng về phát hiện, xử lý các vụ án tham nhũng sát với thực tiễn, Bộ Tư pháp đã phối hợp các bộ, ngành trình Quốc hội ban hành nhiều văn bản quan trọng, trong đó Bộ luật Hình sự năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 theo hướng mở rộng nội hàm và cấu thành tội phạm tham nhũng; bổ sung hình phạt, các biện pháp tư pháp và các quy định về giảm hình phạt; giảm nhẹ hình phạt trong trường hợp chủ động khắc phục hậu quả tham nhũng; không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án đối với các tội tham ô tài sản và nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; quy định các biện pháp ngăn chặn tẩu tán tài sản trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, hợp tác quốc tế nhằm thu hồi tối đa tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát.
Trong công tác bổ trợ tư pháp, Bộ Tư pháp đã tham mưu Chính phủ, Quốc hội các văn bản về tăng cường công tác quản lý nhà nước trong hoạt động bán đấu giá tài sản; góp phần bảo đảm minh bạch, hạn chế tình trạng thông đồng, dìm giá, trục lợi, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đấu giá nói chung và đấu giá tài sản thi hành án nói riêng; tham mưu gỡ khó trong hoạt động giám định tư pháp, đặc biệt là giám định thiệt hại trong các vụ án tham nhũng, kinh tế lớn.
Nhằm tăng khả năng thu hồi tài sản tham nhũng, Chỉ thị số 50-CT/TW, ngày 7/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng nêu rõ, trong xử lý tham nhũng phải xác minh rõ, chính xác tài sản của người có hành vi tham nhũng; áp dụng kịp thời các biện pháp thu hồi tối đa tài sản do tham nhũng mà có. Theo Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Nguyễn Trí Tuệ, các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp thường liên quan nhiều nhóm tội danh, các hành vi phạm tội của các đối tượng đan xen, không phân định rõ về vai trò, vị trí cụ thể theo đặc trưng của tội phạm có tổ chức cho nên việc đánh giá chứng cứ, xác định tội danh, đồng phạm là hết sức quan trọng.
Cùng với việc quyết định về trách nhiệm hình sự thì quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các quyết định khác cũng phải hết sức lưu ý; phải xác định đầy đủ, rõ ràng tài sản bị chiếm đoạt và mục tiêu quan trọng nhất là phải thu hồi tối đa tài sản cho Nhà nước. Bảo đảm đúng quy định pháp luật trong việc giải quyết tài sản liên quan đến người thứ ba. Quá trình xét xử, nếu có căn cứ, Hội đồng xét xử kiến nghị khởi tố vụ án để tránh bỏ lọt tội phạm, đồng thời kiến nghị các cơ quan nhà nước và các tổ chức có thẩm quyền khắc phục sơ hở, thiếu sót.
Xác định thiệt hại và thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát, cũng theo đồng chí Nguyễn Trí Tuệ, là mối quan tâm hàng đầu, đặc biệt quan trọng trong các vụ án tham nhũng, kinh tế vì đây là căn cứ cơ bản nhất để xác định trách nhiệm hình sự, áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với các bị can/bị cáo và biện pháp để thu hồi tài sản tham nhũng.
Giá trị thiệt hại, hậu quả của tội phạm có ý nghĩa quan trọng và mang tính bắt buộc để xác định hành vi vi phạm có phải là tội phạm hay không đối với những tội có quy định yếu tố thiệt hại, hậu quả nghiêm trọng là một trong những dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm (gồm các tội “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; “lạm quyền trong khi thi hành công vụ”, “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”); là căn cứ để xác định khung hình phạt; đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội khi quyết định hình phạt; xác định trách nhiệm bồi thường và các biện pháp tư pháp (tịch thu, kê biên tài sản trong vụ án hình sự).
Bên cạnh nhiệm vụ đấu tranh, chống tội phạm trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, yêu cầu thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt ngày càng được quan tâm. Khối lượng tài sản thu hồi được là một trong những thước đo quan trọng đánh giá hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng. Ngoài những biện pháp vận động, thuyết phục, động viên các đối tượng phạm tội tự nguyện hoặc vận động người thân, gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả, các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện các biện pháp điều tra, nghiệp vụ nhằm kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, xác minh làm rõ số tiền, tài sản bị chiếm đoạt được sử dụng, tẩu tán, chuyển hóa; đấu tranh với các đối tượng sử dụng số tiền, tài sản bị chiếm đoạt, khởi tố về tội “rửa tiền” để điều tra, xử lý; làm rõ dòng tiền bắt đầu và kết thúc ở đâu để có biện pháp thu hồi chính xác, kịp thời theo quy định.
(Còn nữa)