Bài 2: Những nhận thức mới về phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ điểm mới căn bản của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (KTTT ĐH XHCN) mà Việt Nam lựa chọn, đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ).
Trước hết, điểm mới nổi bật về phát triển kinh tế của Đảng trong cả bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và trong văn kiện Đại hội XIII là sự củng cố, làm sâu sắc và nâng cao toàn diện hơn nhận thức về mô hình phát triển KTTT ĐH XHCN ở Việt Nam.
Một mặt, trong khi khẳng định lại những đặc trưng căn bản mô hình KTTT ĐH XHCN được ghi nhận trong Báo cáo Chính trị Đại hội XII, với những điểm nhấn đặc trưng của KTTT mang tính thời đại: Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường; có quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các chủ thể kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường; Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệ môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển. Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội;…
Mặt khác, bài viết của đồng chí Tổng Bí thư và các văn kiện Đại hội XIII cũng khẳng định và làm rõ hơn những nét đặc thù quan trọng trong mô hình KTTT ĐH XHCN là: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước…
Bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
Đặc biệt, việc tái khẳng định mục tiêu cao nhất của công cuộc đổi mới và phát triển KTTT ĐH XHCN là vì một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”… một lần nữa cho thấy: Xây dựng mô hình KTTT ĐH XHCN là phù hợp xu hướng và yêu cầu thực tiễn phát triển KTTT trên thế giới; bởi lẽ, thực tế đã, đang và sẽ ngày càng cho thấy, dù ở đâu và thời đại nào, dù da dạng và khác nhau về chế độ và thể chế chính trị, song mọi mô hình kinh tế thị trường muốn thành công đều phải ngày càng hội tụ vào mục tiêu cao nhất và xuyên suốt là vì phát triển đất nước bền vững và đáp ứng ngày càng tốt hơn khát vọng hạnh phúc cho người dân của quốc gia mình.
Sự khẳng định dứt khoát: Phát triển KTTTĐHXHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH cũng là điểm mới quan trọng mang tầm chiến lược và mang thông điệp mới, coi xây dựng KTTTĐHXHCN là một quá trình dài và việc nhấn mạnh yêu cầu “bảo đảm định hướng XHCN phù hợp từng giai đoạn phát triển của đất nước” là cần thiết, tạo sự linh hoạt và vận dụng hiệu quả nguyên tắc “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong chỉ đạo, điều hành thực tiễn của Đảng trước mọi biến động nhanh, khó lường của thế giới. Đây cũng là thông điệp khẳng định sự nhất quán trong nhận thức chính trị nói chung của Đảng ta về định hướng nội dung và mục tiêu con đường đổi mới, hội nhập của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, phù hợp thực tiễn trong nước và xu hướng chung trên thế giới.
Bên cạnh đó, vị trí, vai trò và yêu cầu củng cố các quan hệ gắn kết giữa các thành phần kinh tế, cũng như nội dung, yêu cầu và các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước trong phát triển cũng được nhận diện và phân nhiệm rõ hơn theo đó, Đảng xác định:
Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế thị trường.
Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động theo cơ chế thị trường, áp dụng quản trị hiện đại theo chuẩn mực quốc tế, lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu chủ chủ yếu và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Cần nhấn mạnh rằng, các nguyên tắc và kết quả triển khai chúng là cần thiết để Việt Nam được các thành viên WTO và các đối tác thế giới công nhận là nền kinh tế thị trường trong quá trình hội nhập quốc tế, nhất là trong khuôn khổ các FTA thế hệ mới.
Kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Nhận thức về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước cũng được làm sâu sắc hơn, với khẳng định Nhà nước có vai trò chủ động hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; tăng cường đào tạo cán bộ có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế; nâng cao năng lực dự báo và ngăn chặn, trung hòa các tác động mặt trái của KTTT (như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh thiếu lành mạnh, phân hóa giàu nghèo và coi nhẹ các vấn đề y tế, môi trường, xã hội…); đồng thời, là nhạc trưởng giữ nhịp và bảo đảm ổn kinh tế vĩ mô, bảo vệ sự cạnh tranh lành mạnh, tuân thủ các cam kết, quy luật và quy trình kinh tế trong hội nhập quốc tế; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia và tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, khuyến khích khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác; nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước v.v…
Đặc biệt, lần đầu tiên Đại hội XIII và bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã mở rộng, nhấn mạnh và làm rõ hơn mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, Thị trường và Xã hội, thay vì chỉ có quan hệ Nhà nước với Thị trường trong văn kiện các kỳ Đại hội trước đây.
Theo đó, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường.
Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém.
Các tổ chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật…
Trong văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh yêu cầu tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT ĐH XHCN, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn và tăng cường xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế.
Một điểm mới nổi bật khác của Đại hội XIII là lần đầu tiên xác quyết những mục tiêu có tính dài hạn, theo tiêu chí chung thế giới, với ba mốc về thời gian, yêu cầu, cấp độ cụ thể theo cách tiếp cận mới (cả về trình độ phát triển, trình độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người và phù hợp cách tiếp cận của thế giới, đó là: Việt Nam phải là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp (đến năm 2025); chuyển thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao (năm 2030); trở thành nước phát triển, thu nhập cao (năm 2045).
Trên thế giới hiện đang thịnh hành phổ biến việc phân loại các nước trên thế giới theo các tiêu chí: Nước phát triển; Nước kém phát triển và Nước đang phát triển (gồm hai nhóm nước: Nước đang phát triển, thu nhập trung bình thấp; Nước đang phát triển, thu nhập trung bình cao).
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới công bố ngày 1-7-2020, những nước có bình quân thu nhập dưới 4.035 USD/người là thu nhập trung bình thấp, từ 4.035 USD đến 12.535 USD/người là thu nhập trung bình cao, từ 12.535 USD trở lên là thu nhập cao.
Theo tính toán và đã được Ðại hội XIII thông qua: Ðến năm 2025, thu nhập bình quân đầu người của nước ta đạt khoảng 4.700 - 5.000 USD; đến năm 2030, khoảng 7.500 USD.
Về giải pháp thực hiện để đạt các mục tiêu này, nhiều điểm mới tích cực đáng ghi nhận trong nhận thức của Đảng, như: Nhấn mạnh cả hai yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp; tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo và hoạt động của những lĩnh vực, mô hình kinh doanh mới; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường; phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, bảo đảm an ninh kinh tế; đẩy mạnh đa phương hóa và đa dạng hóa các quan hệ kinh tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác.
Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng nêu rõ yêu cầu: Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các tác động tiêu cực từ các biến động kinh tế thế giới; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ doanh nghiệp và thị trường trong nước. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp những điều ước và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; tăng cường đào tạo cán bộ… có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế…
Điểm mới trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế giai đoạn 5 năm, 2021-2025, xác định rõ yêu cầu: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh. Phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Thực hiện tốt hơn phát triển bền vững kinh tế biển. Xây dựng chiến lược, hoàn thiện thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị.
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tất cả những điểm mới này là sự phát triển, bổ sung, cụ thể hóa cần thiết những nhận thức về nội dung, yêu cầu cơ chế nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình KTTT ĐH XHCN ở nước ta, cả hiện tại và tương lai.
Những nhận thức mới trên đây phản ánh sự kế thừa và phát triển nội tại tư duy kinh tế của Đảng trong quá trình hội nhập quốc tế, vừa là những kết luận mới rút ra từ sự phân tích các xu hướng và bối cảnh bình thường mới trong thực tiễn phát triển kinh tế thế giới và trong nước…
Quá trình Đảng ta không ngừng hoàn thiện, củng cố nhận thức toàn diện, đầy đủ, sâu sắc và tổ chức xây dựng hiệu quả mô hình KTTT ĐH XHCN ở nước ta là biểu hiện và thước đo sự thành công bản lĩnh, trí tuệ về Đổi mới và Cách mạng của Đảng.
Đồng thời, đó cũng là quá trình tạo lập và hiện thực hóa các mục tiêu, động lực và cơ chế để gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và để người dân được hưởng thụ ngày càng nhiều hơn thành quả của công cuộc đổi mới; để giữ vững được ổn định chính trị và kinh tế, củng cố đồng thuận và đoàn kết xã hội, không ngừng cải thiện các quan hệ và vị thế quốc tế, xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam phát triển nhanh, bền vững hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện hơn.
Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, xây dựng mô hình KTTT ĐH XHCN là cả một sự nghiệp sáng tạo vĩ đại, đầy thử thách, khó khăn, một sự nghiệp liên tục, hướng đích lâu dài, không thể nóng vội, đòi hỏi sự dũng cảm chính trị và sáng tạo khoa học; phát huy sự ủng hộ và tham gia tích cực, tự giác và đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân…
Với tinh thần đó, trong thực tiễn chỉ đạo về phát triển kinh tế thời gian tới theo tinh thần Đại hội XIII, các cơ quan chức năng cần xem xét, bổ sung và làm rõ hơn cơ chế, thể thức quản lý nhà nước giúp KTTT ĐH XHCN được thực thi đầy đủ, bảo đảm uy tín chính trị, niềm tin thị trường và khai thác các cơ hội mới từ các FTA thế hệ mới mà Việt Nam đang và sẽ tham gia, phòng tránh các nguy cơ lệch lạc, biến dạng, lợi ích nhóm, tạo đà để đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Đặc biệt, cần đẩy mạnh và tăng cường hơn vai trò của Nhà nước trong chủ động dự báo và ngăn chặn, xử lý các khuyết tật, tác động mặt trái và khủng hoảng chu kỳ, vốn thuộc bản chất của KTTT (như chạy theo lợi nhuận đơn thuần, cạnh tranh thiếu lành mạnh, phân hóa giàu nghèo và coi nhẹ các vấn đề y tế, môi trường, xã hội…); nâng cao chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của nền kinh tế và doanh nghiệp; phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ; cải thiện ô nhiễm môi trường và quản lý, điều tiết thị trường, khoảng cách giàu nghèo và chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác; chống lại sự xuống cấp văn hóa, đạo đức xã hội, sự diễn biến phức tạp của tội phạm và các tệ nạn xã hội, tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Đồng thời, cần chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống.
Lý luận cần điều chỉnh thích hợp với thực tiễn; xây dựng chuẩn giá trị quốc gia; không để lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ cho phối chi phối chính sách và quá trình tái cấu trúc nền kinh tế; tăng cường bảo vệ lợi ích quốc gia và lấy lợi ích quốc gia dân tộc là ưu tiên cao nhất..
Thực tế ghi nhận và đòi hỏi cần tiếp tục củng cố và thống nhất những nhận thức mới, đầy đủ và sâu sắc hơn về mô hình phát triển KTTT ĐH XHCN của Việt Nam. Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để xây dựng thành công mô hình KTTT ĐH XHCN vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng Việt Nam, là cơ chế bảo đảm gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy dân chủ, sáng tạo và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và người dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới; bảo đảm Việt Nam giữ vững được ổn định chính trị và kinh tế vĩ mô, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh kinh tế; củng cố đồng thuận và đoàn kết xã hội; không ngừng cải thiện các quan hệ và vị thế quốc tế, tạo dựng được lòng tin và hình thành nên các cơ chế hợp tác có hiệu quả trong việc thúc đẩy quan hệ, ngăn ngừa, đẩy lùi các nguy cơ, kiểm soát các bất đồng và giải quyết các vấn đề nảy sinh, nhất là các vấn đề có thể tác động nghiêm trọng tới an ninh và phát triển của đất nước ta; xây dựng và phát triển đất nước phát triển nhanh, bền vững hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và toàn diện hơn.
Nhận thức là một quá trình. Với tinh thần đó, có thể nói, các văn kiện Đại hội XIII và bài viết quan trọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ghi nhận thêm nhiều dốc mốc mới tích cực trên hành trình liên tục hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT ĐH XHCN ở Việt Nam, từ cách tiếp cận, từ tầm bao quát, đặc biệt là đậm tính nhân văn - Tất cả vì hạnh phúc của Nhân Dân…!
Thể hiện xúc tích và nhấn mạnh sự cầu thị và quyết tâm cao trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển đất nước, sáng 8-5-2021, phát biểu tại hội nghị tiếp xúc cử tri ba quận: Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng (Hà Nội) để vận động bầu cử, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Khóa này phải làm sao hơn khóa trước; năm qua đã tốt rồi thì năm nay phải tốt hơn, vì “đứng lại đã là tụt hậu” nên triển vọng của chúng ta là phải đi lên… Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cần đoàn kết, nhất trí một lòng, cả hệ thống chính trị phải là một khối đoàn kết, thống nhất. Cấp trên phải gương mẫu, cán bộ phải gương mẫu, đại biểu Quốc hội phải xứng đáng là đại diện của dân, do dân và vì dân…
Việt Nam - Cầu thị và tự tin trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN (Bài 1)