Tại phiên họp thứ 39 Uỷ ban Thường vụ QH

Vấn đề quy hoạch và sử dụng đất còn hạn chế

Ngày 3-5, tại phiên họp thứ 39, Uỷ ban Thường vụ QH đã nghe Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Mai Ái Trực, thừa uỷ quyền của Thủ tướng Chính phủ báo cáo về việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Luật Đất đai và Chủ nhiệm Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách của QH Nguyễn Đức Kiên trình bày báo cáo giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Luật Đất đai.

Đánh giá về những mặt làm được, những yếu kém, vướng mắc và nguyên nhân của việc chấp hành pháp luật về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, Báo cáo của Chính phủ nhận định, nhìn chung việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã tuân thủ các nguyên tắc, căn cứ, trình tự, nội dung mà pháp luật đất đai quy định. Việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp đã dần đi vào nền nếp, cơ cấu sử dụng đất được chuyển đổi phù hợp với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đã đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất trong nông nghiệp, nông thôn phù hợp nền kinh tế hàng hoá.

Quản lý nhà nước về đất đai được tăng cường, bảo đảm cơ sở pháp lý cho việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, hạn chế việc chuyển đất lúa nước, đất lâm nghiệp có rừng sang mục đích khác. Diện tích đất có rừng che phủ từ chỗ bị suy giảm mạnh, gần đây đã được khôi phục và tăng nhanh. Đất dành cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, xây dựng đô thị được mở rộng, cơ bản đáp ứng nhu cầu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều địa phương đã triển khai việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chi tiết đến từng thửa đất, đánh dấu một bước tiến mới trong quá trình hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở cấp xã.

Về những yếu kém, vướng mắc, báo cáo nêu rõ, tiến độ lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất các cấp, nhất là cấp huyện, cấp xã còn chậm (đến nay vẫn còn 20% số đơn vị hành chính cấp huyện và 34% số đơn vị hành chính cấp xã chưa lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất). Hầu hết quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp địa phương đã được xét duyệt trước ngày QH thông qua Luật Đất đai năm 2003 chưa được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế đã biến động. Trong cả nước chưa thực hiện được quy định “Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của mỗi kỳ phải được quyết định, xét duyệt trong năm cuối của kỳ trước đó”.

Đa số địa phương, nhất là các thành phố trực thuộc T.Ư, còn lúng túng trong việc gắn kết giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch điểm dân cư nông thôn. Chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhất là quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và cấp huyện còn có nội dung chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và quốc phòng-an ninh, tính khả thi thấp, việc quản lý đất đai theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa trở thành ý thức trong các cơ quan và người quản lý. Quy hoạch sử dụng đất thường phụ thuộc vào khả năng tìm kiếm được các nhà đầu tư có khả năng thực hiện dự án. Nhiều địa phương lập quy hoạch sử dụng đất đối với đất chuyên dùng quá cao so với khả năng đầu tư và điều kiện thực tiễn của địa phương, dẫn đến tình trạng nhiều khu công nghiệp chỉ lấp đầy được 30-40%, nhiều khu đô thị còn để đất trống không xây dựng công trình, nhiều dự án xây dựng kinh doanh nhà ở không có người mua.

Hệ thống quy hoạch sử dụng đất còn thiên về sắp xếp các loại đất theo mục tiêu quản lý hành chính, chưa tính toán đầy đủ về hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường nhằm bảo đảm phát triển bền vững trong sử dụng đất, chưa phát huy cao nhất tiềm năng đất đai. Việc điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở một số địa phương còn tuỳ tiện, không tuân thủ các tiêu chí theo quy định của pháp luật về đất đai. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong việc lập, điều chỉnh và thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thật chặt chẽ.

Việc quản lý thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa được các địa phương chú trọng, việc phân cấp trách nhiệm quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa rõ ràng; còn có tình trạng giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất trái quy hoạch. Tình trạng quy hoạch “treo” chưa được xử lý vẫn còn khá phổ biến. Việc công khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt còn chậm, chưa được quan tâm đúng mức và mang tính hình thức.

Báo cáo của Chính phủ cũng nêu ra những nguyên nhân yếu kém, hạn chế và những việc cần làm tiếp.

Theo báo cáo giám sát của Uỷ ban Thường vụ QH, nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém trong việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai theo Luật Đất đai, về mặt khách quan do nước ta còn là nước nông nghiệp, phần lớn đất đai đang được sử dụng sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, là nguồn sống của số đông dân cư. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới đã, đang và sẽ đòi hỏi có sự chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu đất đai. Vì vậy, việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với tầm nhìn chiến lược lâu dài, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế-xã hội trong thời kỳ mới, giải quyết hài hoà lợi ích nhà nước, nhà đầu tư và hộ nông dân, kết hợp được các mục tiêu phát triển bền vững thật sự là một khó khăn và thách thức lớn.

Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi, khối lượng công việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cả nước rất lớn. Hơn nữa, hiện trạng quy hoạch đất đai của nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng của các yếu tố lịch sử và hậu quả của sự phát triển thiếu quy hoạch hoặc thực hiện không đúng quy hoạch trong giai đoạn trước để lại. Do vậy, cũng còn cần nhiều thời gian để khắc phục.

Nguyên nhân về mặt chủ quan là, nhận thức về Luật Đất đai và về vai trò, tầm quan trọng của công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất còn hạn chế; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất chưa thật sự được coi là cơ sở pháp lý quan trọng, phải tuân thủ trong quá trình thực hiện.

Trong công tác lập, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, nhiều nơi còn nóng vội, đặt ra yêu cầu quá cao so với nhu cầu thực tế và khả năng đầu tư; chú ý nhiều đến lợi ích nhà nước, tập thể, nhà đầu tư mà chưa chú ý thoả đáng, xem xét thấu đáo lợi ích của những người thuộc đối tượng bị thu hồi đất sản xuất, đất ở.

Mặt khác, Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành liên tục được sửa đổi, bổ sung, một mặt tạo ra khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn thiện, mặt khác lại tạo ra sự thiếu ổn định và tâm lý chưa thật tin tưởng trong cán bộ và nhân dân. Việc này cũng đã ảnh hưởng đến công tác lập và thực hiện quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất trong thời gian qua.

Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đòi hỏi nhiều chi phí cho công tác nghiên cứu, tính toán khoa học cũng như công tác thực địa, nhưng các cấp, các ngành bố trí kinh phí cho công tác này ở mức thấp và chậm trễ. Việc đầu tư cho công tác thông tin quy hoạch, kế hoạch cũng còn rất ít. Đội ngũ cán bộ làm công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp, nhất là ở cấp huyện vừa thiếu vừa hạn chế về chuyên môn, nắm bắt chưa sát nhu cầu sử dụng đất của tổ chức, cá nhân trên địa bàn.

Sự chỉ đạo của Chính phủ còn thiếu kiên quyết, sự phối hợp giữa các bộ và giữa các bộ với các địa phương, giữa các địa phương với nhau chưa chặt chẽ; nhiều quy hoạch vùng, ngành có liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố chưa được bàn bạc, trao đổi thấu đáo, nên có trường hợp không thể hiện được nguyện vọng, nhu cầu sử dụng đất xác đáng của địa phương.

Biện pháp tổ chức thực hiện quy hoạch và kế hoạch thiếu cụ thể và chưa đồng bộ. Từ việc phân tích nguyên nhân khách quan và chủ quan nêu trên, báo cáo giám sát đã đưa ra những yêu cầu đối với công tác lập, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm phát huy kết quả đạt được, khắc phục những tồn tại, yếu kém, bảo đảm thực hiện tốt công tác này, trong những năm tới. Đó là những yêu cầu đặt ra với công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung và việc chuẩn bị kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006-2010; những yêu cầu đặt ra về nhóm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông, lâm, ngư nghiệp và đất dành cho nghề làm muối; nhóm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế; nhóm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kết cấu hạ tầng kỹ thuật giao thông, thuỷ lợi; nhóm quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở đô thị và đất ở nông thôn.

Trên cơ sở hai báo cáo nói trên, các thành viên Uỷ ban thường vụ QH đã cho ý kiến về những kết quả, tiến bộ đạt được của công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Luật đất đai và những yếu kém, hạn chế cũng như giải pháp khắc phục trong những năm tới.       

Cũng trong ngày làm việc này, Uỷ ban Thường vụ QH đã thảo luận về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức QH. Dự án luật này đã được các đại biểu QH chuyên trách thảo luận tại Hội nghị đại biểu QH chuyên trách lần thứ 8 (2-2006) và các Đoàn đại biểu QH ở địa phương đóng góp ý kiến.

Nội dung sửa đổi có những điểm mới sau đây:

Một là, tách hai Uỷ ban thành bốn Uỷ ban. Đó là, Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách tách thành Uỷ ban kinh tế và Uỷ ban Tài chính; Uỷ ban pháp luật tách thành: Uỷ ban pháp luật và Uỷ ban Tư pháp.

Hai là, tăng số đại biểu QH hoạt động chuyên trách: hiện tại là 25%, tăng lên ít nhất là 40% tổng số đại biểu QH.

Ba là, lập một chức danh mới là: Tổng thư ký QH.

Bốn là, quy định cụ thể hơn chế định: Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do QH bầu hoặc phê chuẩn. Vì Điều 12 Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành đã quy định vấn đề này, nhưng cơ chế thực hiện chưa rõ ràng, cụ thể, do đó, đến nay sau gần năm năm luật có hiệu lực, nhưng QH chưa tiến hành được lần nào trên thực tế.

Thế Lân