Như mọi khi, việc bắt đầu một cuốn mới luôn rất có ý nghĩa với tôi. Kiểu như "đầu xuôi, đuôi lọt" vậy. Và chỗ mà tôi thích được bắt đầu nhất luôn là một nơi nào đó thật là yên tĩnh, với thiên nhiên tràn trề nhựa sống.
Tôi đi một vòng để cảm nhận nơi mình sẽ lưu trú vài ngày, mở các cánh cửa và quan sát thật thận trọng. Thực tế thì rất hiếm khi tôi cảm thấy thoải mái ở một nơi chốn không phải thân thuộc, như nơi này. Nó có đủ những gì tôi muốn: sự tĩnh lặng, hầu như không nghe thấy tiếng người, nhiều cây cối, đầy ánh sáng tự nhiên, xa lạ vừa đủ lịch sự, ấm áp vừa đủ thân thiện. Tất nhiên, nó sẽ không bao giờ là nơi tôi thuộc về, dù chỉ trong tâm trí, nó cũng sẽ không gây thương nhớ. Cuộc đời hay có những điều như vậy xảy ra. Thích chưa chắc đã quyến luyến. Mà quyến luyến chưa hẳn đã có lý do.
Nhưng có thể, nó sẽ gây xúc động.
Trước mặt tôi là một vách núi, ở bên kia vực. Tức là tôi đứng bên này mép vực. Cảm giác có thể chỉ vươn tay ra thôi là sẽ chạm vào cái mầu xanh um tùm đang tỏa ra một năng lượng dồi dào.
Hình như đêm trước vừa mưa. Không gian thật tinh sạch, những cái lá bóng lên dưới ánh nắng sớm. Tôi sắp xếp đồ đạc và chọn một góc để đặt cái máy tính.
Sau nhiều năm đi trên con đường này, càng về sau tôi càng nhận thấy một điều: Văn chương là nơi an toàn vô hạn, không bao giờ mang tới muộn phiền. Nơi đôn hậu và luôn rộng mở, chấp nhận mọi thứ cảm xúc. Nơi tôi được là chính mình nhất, mọi niềm vui, hạnh phúc, nỗi ưu tư hay phiền muộn, đều không phải giấu giếm. Văn chương cũng không bao giờ mang tới những thương tổn mà trái lại, luôn ngập tràn niềm hưng phấn say mê. Tôi có thể cảm thấy bất an ở rất nhiều nơi, thậm chí ngay trong ngôi nhà của mình, nhưng tôi yên ấm khi ở trong văn chương. Đấy là lý do vì sao tôi không bao giờ rời bỏ. Không bao giờ, tôi nghĩ vậy đấy. Nếu có rời bỏ, thì có lẽ chỉ là văn chương rời bỏ tôi mà thôi.
Lại nói về nơi này, nơi mà tôi sẽ viết những trang đầu tiên.
Nó nằm ở lưng chừng một dãy núi ôm trọn lấy một cái vịnh biển lớn và đẹp vô chừng. Tôi nghĩ, nếu ngắm nó từ trên cao sẽ thật thấm thía rằng mình đang đứng ở một nơi trông như thế nào. Dãy núi với những vách đá dựng đứng, xanh biếc toàn cây bụi và dây leo. Sẽ thật khó có cây to ở một nơi như vậy vì núi rất ít đất, và lại trải qua hàng triệu năm hứng gió mạnh mẽ từ biển thổi vào. Người ta dựng nhà trên đấy, bám cheo leo trên vách núi. Tôi có thể thấy núi ngay trước mặt, nhưng chỉ ngoái lại sau lưng là nhìn thấy biển. Tôi ngồi xuống thềm nhà, trong mùi hương của những bông hoa đang dịu dàng tỏa ra và nghĩ: Liệu mình còn mong gì hơn một nơi như thế này cho một khởi đầu?
Tôi nhớ ngôi nhà của tôi. Ngôi nhà mà tôi đã lớn lên. Nó cũng có cái bậc thềm thế này và một khoảnh sân lát xi-măng mà mùa nào thức nấy mẹ tôi phơi các loại hạt. Nó cũng có vài bụi hoa. Chỉ khác là lúc nào cũng có tiếng gà mẹ lục cục gọi con, tiếng gà con chiếp chiếp. Ở đây không ai nuôi gì, nhưng có những con chim tự nhiên rất dễ thương. Một con chào mào đậu trên hàng rào phủ kín dây leo lúc lắc cái đầu, nhảy nhót một hồi rồi bay đi. Một con gì cánh rất dài như chim ưng, liệng lưng vách núi và đảo một vòng điệu nghệ phía trên vịnh biển. Một đàn chim nhỏ nữa, trông như chim én, bay dập dờn trên đỉnh dãy núi...
Hôm sau, tôi thức dậy từ sáng sớm để leo lên núi. Ngọn núi ấy ở phần rìa bên trái của vịnh. Đứng từ hiên nhà nhìn sang thấy một con đường mòn uốn quanh sườn núi, và đặc biệt ở phần nhô ra của mỏm núi, nó khiến tôi hình dung mình có thể bị gió thổi bạt đi. Nghĩ thôi đã rùng mình.
Hình như chưa bao giờ tôi ở trên một ngọn núi mà dưới chân lại là đại dương. Một đại dương mênh mông xanh thẳm. Sóng đập tung bọt ở tít dưới sâu kia. Vách đá ở đây cũng gần như dựng đứng, nhìn xuống khá hãi hùng. May là có nhiều cây bụi, dây leo trùm phủ ra ngoài.
Trời hơi lạnh lạnh. Gió mạnh. Mặt trời chưa lên, sương chưa tan.
Mấy cánh chim trời vẫn liệng đi liệng lại lúc gần lúc xa. Chúng liệng suốt ngày, trừ ban đêm. Mùi rừng thơm nồng nàn. Mùi của sự sống mãnh liệt, của hương thơm tinh khôi.
Tôi chìm trong sự tĩnh lặng vô giá.
Tôi nhớ mình đã luôn muốn chạy trốn khỏi thành phố, mặc dù tôi cũng đã chọn một nơi yên tĩnh nhất có thể để sống. Thành phố luôn khiến cho tâm trí tôi bị bó hẹp lại, không thể nào cởi mở như tôi muốn. Thứ gì cần cho sự tồn tại thì thành phố cũng có, nhưng để thực sự "sống" thì luôn thiếu. Mà thực ra, đôi khi tôi chẳng biết chính xác là thiếu gì. Tôi chỉ cảm thấy mình bị trói buộc cho đến tận khi... rời khỏi nó. Tất nhiên, cái tâm trạng con người ta rất kì lạ ở chỗ, đi xa vài ngày đột nhiên sẽ thấy nhớ. Và nỗi nhớ ấy sẽ đầy dần lên, tới mức muốn quay về. Tâm trạng con người, lẽ nào giống như cánh chim kia. Chao liệng một cách thật nồng nhiệt với bầu trời, nhưng cuối cùng, sẽ tìm một nơi để đậu dưới mặt đất.
Tôi đi ra cái mỏm mà tôi nhìn thấy từ lúc ở hiên nhà. Nó rộng, khá rộng. Dăm bảy người đứng thoải mái. Người ta có làm một cái lan can để ai ra đứng đó cũng không nguy hiểm. Cái mỏm chìa ra không gian. Cúi xuống là thấy mặt nước dưới thẳm sâu. Một thứ thẳm sâu cuốn hút diệu kỳ. Nhiều người sợ độ cao, tôi thì không. Tôi luôn thấy ngập tràn hưng phấn khi đứng ở những nơi thật cao. Độ cao luôn mang tới một cảm xúc khoáng đạt mãnh liệt, một thứ mơ mộng rất gần với hiện thực, và luôn gợi mở những ý tưởng mới.
Một bà lão xuất hiện ở đường mòn, tay bà cầm một cái roi nhỏ. Đầu đội mũ vải, chân đi giày vải, áo quần gọn gàng. Tôi chưa kịp chào thì bà đã nói trước:
- Cô ở xa đến à?
- Vâng. Cháu mới đến. Bà sống ở gần đây ạ?
Bà lão vẩy cái roi về phía bên kia núi.
Bà bỏ cái mũ vải mầu nâu đất ra, đưa ống tay áo lên quệt mồ hôi trán. Mái tóc bạc chỉ còn điểm một ít sợi đen búi gọn gàng sau gáy. Một gương mặt đẹp kỳ lạ. Bà hẳn là cực kỳ đẹp khi còn trẻ. Đôi mắt mầu hạt dẻ, cặp lông mày cong, sống mũi thẳng, viền môi rõ ràng, răng đều và trắng rất tự nhiên. Gương mặt nhiều nếp nhăn còn lưu lại vẻ thanh tú dĩ vãng.
Bà lão đang đi chăn dê. Đàn dê đâu đó sau lưng chúng tôi, rúc dưới những bụi cây rậm rạp.
Tôi không thể nào hình dung nổi một bà lão sống ở trên núi, đi chăn dê, lại có thể đẹp đến vậy. Không hề thấy bóng dáng của sự lam lũ ở dáng vẻ nhỏ nhắn tinh tươm ít nhiều đài các của bà. Tôi và bà nói dăm ba câu chuyện linh tinh, không hỏi những chuyện riêng tư như một kiểu giao tiếp hết sức tế nhị. Tôi hỏi bà về mấy loài chim, về những ngày biển động, biển lặng, về những tháng nào thì hoa dại nở trên núi. Tôi hỏi gì bà cũng nhẫn nại đáp một cách chi tiết. Tôi nhận ra, bà thực sự rất yêu ngọn núi này. Một sự đồng cảm sâu sắc bỗng ùa tới làm ấm áp tột cùng trái tim gầy của tôi. Tôi sinh ra bên những ngọn núi và suốt đời tôi đi tìm kiếm những ngọn núi như tìm về một nơi trú ẩn. Bà hạnh phúc hơn tôi, có lẽ vậy. Vì đã già đến thế này rồi, bà vẫn chẳng phải bỏ núi lại mà đi xa. Có lẽ bà sẽ chết ở đây. Thực lòng, tôi đã luôn ước mình sẽ được chết ở trên một ngọn núi biếc xanh.
Trong khi tôi đang còn lặng đi vì xúc động thì bà cất tiếng hát. Một vài câu hát gì đó rất kỳ lạ, có một chút âm hưởng dân ca thì phải. Tôi còn chẳng biết vùng này có loại hình dân ca nào nổi tiếng. Tôi không dám thở mạnh. Tiếng bà như tiếng gió thoảng rất thanh mảnh, hay như tiếng rơi của những giọt sương ban mai. Và những sợi tóc bạc của bà bay bay trên vầng trán trắng sáng. Tôi chỉ muốn cấu mạnh mình một cái xem có phải là tôi đang không ở trong một giấc mộng hay không.
Bà hát xong thì đàn dê từ đâu lục tục kéo nhau xuống. Dường như cứ đúng giờ về thì dê mẹ dê con lại tự kéo nhau xuống đường mòn để theo bà về nhà. Bà đứng dậy, phủi phủi mấy cái để cỏ khô không còn dính trên quần. Rồi cứ thế, người trước dê sau, thủng thẳng đi dọc theo đường mòn để về bên kia núi.
Tôi cảm thấy mình sắp hóa đá. Một nỗi gì đó giống như xúc động quá lớn đã ùa tới và bóp nghẹt cả lồng ngực tôi. Sự tĩnh lặng này, sự tĩnh lặng của một đời sống trên núi vừa mang tới cho tôi điều gì đó lớn lao đến mức quá tải. Tôi nghe thấy âm thanh của nó. Âm thanh hạnh phúc của sự tĩnh lặng tuyệt vời.
Tôi rời khỏi ngọn núi và mang theo mình linh hồn của ngọn núi, hoặc là ngược lại, nó giữ linh hồn tôi ở lại. Và dù là gì, lòng tôi rất muốn nói một câu cảm tạ thật giản dị và chân thành.