Trường thanh niên tiền tuyến Huế trong "cái chớp mắt của lịch sử"

Quân dân Bắc Trung Bộ trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp.
Quân dân Bắc Trung Bộ trong ngày đầu kháng chiến chống Pháp.

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, toàn bộ Ðông Dương trở thành thuộc địa của phát-xít Nhật. Tuy vậy, nhìn trên toàn cục, phát-xít Nhật đang ở trong thế thất bại không thể tránh khỏi. Bản chỉ thị lịch sử "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", ngày 12-3-1945, của Ðảng cộng sản Ðông Dương đã kịp thời đưa ra những chủ trương đúng đắn, đẩy nhanh phong trào đấu tranh giành độc lập tiến lên cao trào Kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ trong cả nước.

Trong những nỗ lực kiểm soát Ðông Dương, phát-xít Nhật bày trò "trao trả độc lập", dựng lên nội các Trần Trọng Kim với âm mưu triệt để lợi dụng bộ máy này cho những toan tính của chúng. Tuy vậy, những toan tính đó không đạt kết quả như chúng mong đợi.

Nhiều người trong nội các Trần Trọng Kim là những trí thức có uy tín với nhân dân. Họ là những nhà giáo, luật gia, nhà báo... đã có những hoạt động thể hiện tinh thần yêu nước. Ðó là giáo sư Hoàng Xuân Hãn (Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Mỹ thuật), luật sư Trịnh Ðình Thảo (Bộ trưởng Bộ Tư pháp), luật sư Phan Anh (Bộ trưởng Bộ Thanh niên)...

Trường thanh niên tiền tuyến Huế ra đời trong một cách tương kế tựu kế của các trí thức có tinh thần dân tộc, lợi dụng tình thế nắm lấy lực lượng thanh niên, đưa họ vào một tổ chức có lợi cho đất nước, không để Nhật lợi dụng đổ máu chết thay cho chúng.

Hai nhà trí thức Phan Anh và Tạ Quang Bửu đã khôn khéo tạo cho trường vỏ bọc thuộc Bộ Thanh niên và "bảo đảm cho học viên tự chọn con đường riêng của mình" nhưng thực chất trường tập hợp những thanh niên, sinh viên có trình độ và huấn luyện họ thành những cán bộ chỉ huy quân sự để phụng sự Tổ quốc - Tổ quốc hiểu theo nghĩa cao quý, thiêng liêng nhất. Hiệu trưởng của trường, ông Phan Tử Lăng, là Chỉ huy trưởng Bảo an binh Trung kỳ, là thủ khoa một khóa huấn luyện quân sự của Pháp nhưng cũng là người có tinh thần yêu nước và có cảm tình với phong trào cứu nước của Việt Minh từ lâu (1).

Bốn mươi ba học viên của trường là những thanh niên, học sinh có hoàn cảnh khác nhau nhưng cùng có chung một bầu nhiệt huyết, hăng hái muốn hành động, muốn làm những việc ích nước lợi dân trong bối cảnh sôi động của đất nước. Ngay trong tuần đầu sau ngày khai giảng 2-7-1945, Ban chấp hành Việt Minh của trường được thành lập gồm Nguyễn Thế Lâm, Lê Khánh Khang, Võ Quang Hồ, Ðặng Văn Việt, Cao Pha và Phan Hàm.

Chương trình đào tạo của trường gồm cả tác chiến cá nhân cho đến chỉ huy trung đội chiến đấu. Từng người luân phiên làm trực ban tiểu đội và trực nhật trung đội hàng ngày. Học viên của trường được tổ chức lên núi Ngự Bình, Nam Giao học quân sự, học cưỡi ngựa ở Sở Canh nông, học bơi, học về vũ khí và cả các nghề cơ khí... Nhân dân thành Huế dần quen với trung đội thanh niên hàng ngũ chỉnh tề, qua cầu Trường Tiền đi dã ngoại tập quân sự, vừa đi vừa hát vang hành khúc "Tiếng gọi sinh viên", "Lên đàng"...

Tổ chức Việt Minh của trường hoạt động tích cực nên đã ảnh hưởng nhanh chóng đến toàn trường. Từ tháng 7-1945, có thể nói Trường thanh niên tiền tuyến Huế đã được "Việt Minh hóa". Những học viên, sinh viên yêu nước đã được hướng dẫn hành động theo dòng chảy chung của cao trào đấu tranh đang dâng lên trong cả nước.

Phong trào càng dâng cao, Việt Minh Thừa Thiên - Huế càng tỏ ra tin cậy lực lượng Thanh niên tiền tuyến bên cạnh khối lực lượng đông đảo của cách mạng. Vũ khí được giao hẳn cho học viên sử dụng đề phòng những tình huống bất trắc với quân Nhật. Nhóm Việt Minh Trường thanh niên tiền tuyến được mở rộng và sôi nổi hoạt động. Tháng 7-1945, nhóm Việt Minh của trường nhập với Việt Minh toàn tỉnh, lập Ban chấp hành Việt Minh Thừa Thiên - Huế do đồng chí Hoàng Anh là Bí thư, thống nhất hành động dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy. Trước ngày giành chính quyền, Việt Minh Thừa Thiên - Huế đã lôi kéo được Việt binh đoàn bao gồm lực lượng vũ trang của Trần Trọng Kim và Bảo Ðại ngả về phía cách mạng.

Trong những ngày Huế khởi nghĩa, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy và cả Xứ ủy, anh em Thanh niên tiền tuyến được phân công những công việc đặc biệt: Treo cờ đỏ sao vàng trên kỳ đài trước Ngọ môn ngày 21-8-1945; bảo vệ cuộc mít-tinh giành chính quyền ngày 23-8-1945; bảo vệ buổi lễ thu ấn kiếm của Bảo Ðại ngày 30-8-1945; "hộ tống" cố vấn Vĩnh Thuỵ từ Huế ra Hà Nội; bắt những toán quân Pháp đổ bộ vào Huế sau ngày độc lập...

Sau ngày giành chính quyền, lực lượng vũ trang cách mạng Thừa Thiên - Huế đã nhanh chóng phát triển thành 25 trung đội Giải phóng quân Thuận Hóa. 10 trung đội trong số này do các cựu học viên Trường thanh niên tiền tuyến làm trung đội trưởng, thống nhất hành động dưới sự chỉ huy của Ủy ban quân sự tỉnh.

Trường thanh niên tiền tuyến Huế tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi như một vệt sáng lóe lên trước "cái chớp mắt của lịch sử", theo cách nói của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp về thời khắc lịch sử huy hoàng của dân tộc - Tháng Tám 1945. Sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn, tư tưởng và hành động của những thanh niên từ yêu nước đến giác ngộ cách mạng đã được tổ chức một cách khéo léo giữa những điều kiện lịch sử diễn biến khá phức tạp và nhanh chóng ở Huế.

Trong cuộc kháng chiến bảo vệ nền độc lập, các học viên Trường thanh niên tiền tuyến Huế tỏa đi chiến đấu trên các mặt trận. Nhiều tấm gương hy sinh anh dũng trên đường Nam tiến, trên chiến trường Lào... Ðược tôi luyện trong khói lửa chiến đấu, nhiều người trở thành những cán bộ chỉ huy xuất sắc. Từ Trường thanh niên tiền tuyến Huế, cách mạng đã có hai Bộ trưởng quốc phòng (2), tám vị tướng (3), nhiều nhà khoa học, nhà quản lý... Lịch sử cách mạng Việt Nam đã ghi nhận "hiện tượng" độc đáo này. Ðó là sản phẩm của lòng yêu nước Việt Nam được ánh sáng cách mạng dẫn đường ...

------------------------------

(1) Sau khi Huế giành được chính quyền, ông Phan Tử Lăng là Phó Tư lệnh quốc phòng Trung Bộ, bên cạnh Tư lệnh Nguyễn Chánh; tháng 3-1946, được Hồ Chủ tịch bổ nhiệm là Cục trưởng Cục Quân chính; năm 1948 được phong quân hàm Ðại tá.

(2) Các ông Phan Anh và Tạ Quang Bửu.(3) Trung tướng Cao Văn Khánh; các thiếu tướng: Phan Hàm, Ðoàn Huyên, Cao Pha, Nguyễn Thế Lâm, Ðào Hữu Liêu, Võ Quang Hồ, Mai Xuân Tần.