Tìm giải pháp nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước

NDO -

10 năm trở lại đây, các nỗ lực triển khai, củng cố vị trí, vai trò của doanh nghiệp nhà nước chưa được quan tâm đúng mức. Vì vậy, doanh nghiệp nhà nước chưa hoạt động bình thường theo đúng nghĩa một doanh nghiệp để duy trì năng lực cạnh tranh và đóng góp nhiều hơn cho phát triển kinh tế-xã hội.

Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo tại Hội nghị. Ảnh: TRẦN HẢI
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo tại Hội nghị. Ảnh: TRẦN HẢI

Bức tranh toàn cảnh về khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng báo cáo tại Hội nghị Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp nhà nước: Tiếp tục đổi mới, nâng cao hoạt động, huy động nguồn lực của doanh nghiệp nhà nước trong phát triển kinh tế-xã hội.

Nguồn lực lớn nhưng hiệu quả chưa tương xứng

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, tính toán sơ bộ, tổng tài sản của khối doanh nghiệp nhà nước theo giá trị sổ sách năm 2021 khoảng 4 triệu tỷ đồng; tài sản bình quân của một doanh nghiệp nhà nước khoảng 4.100 tỷ đồng, gấp 10 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và gấp 109 lần doanh nghiệp dân doanh.

Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân cả giai đoạn 2016-2020 là 10,46%; tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân là 4,87%, cao hơn khối doanh nghiệp ngoài nhà nước là 1,26%.

Số thuế và các khoản phải nộp bình quân của doanh nghiệp nhà nước là 576 tỷ đồng, gấp 2 lần doanh nghiệp có vốn nhà nước, 43 lần doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 14 lần doanh nghiệp dân doanh.

Doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng như dầu khí, điện lực, tài chính, ngân hàng, viễn thông, hạ tầng giao thông và sản xuất, cung ứng một số nguyên vật liệu đầu vào cơ bản cho nền nền kinh tế…

Nhiều tập đoàn, tổng công ty tham gia cùng Nhà nước bảo đảm an ninh, quốc phòng, thực hiện các chính sách an sinh xã hội, kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ quyền quốc gia; cung cấp sản phẩm, dịch vụ thiết yếu như điện, nước, thủy lợi, thủy nông, vệ sinh môi trường…

Vốn đầu tư chiếm 24,6% so với tổng vốn đầu tư của Nhà nước và chiếm 12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2016-2020. “Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nhà nước trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt, quan trọng của nền kinh tế đã giúp giảm bớt gánh nặng từ ngân sách nhà nước trong thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng quan trọng của đất nước; góp phần thực hiện tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Tuy nhiên, Bộ trưởng cũng chỉ rõ: Kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước chưa đạt như kỳ vọng, hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ. Các tập đoàn, tổng công ty về cơ bản chưa thực hiện được vai trò dẫn dắt, tạo động lực đối với nền kinh tế, không có các dự án đầu tư phát triển quy mô đủ lớn tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và của khu vực doanh nghiệp Việt Nam, nhất là trong các lĩnh vực mới như sản xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, công nghệ cao, thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, tăng trưởng xanh, công nghiệp công nghệ 4.0…

Việc tái cơ cấu toàn diện doanh nghiệp nhà nước vẫn mang tính hình thức, mới chủ yếu tập trung sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn để có cơ cấu hợp lý hơn, chưa chú trọng thực hiện các định hướng, giải pháp đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao và một chiến lược kinh doanh dài hạn có tính khả thi cao. Thiếu tầm nhìn chiến lược để phát triển doanh nghiệp nhất là tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu và vươn ra quốc tế.

Đề xuất 8 nhóm giải pháp

Về nguyên nhân và bài học của những tồn tại trong khu vực doanh nghiệp nhà nước, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng chỉ ra có nguyên nhân quan trọng về thể chế, chính sách. Đó là hệ thống pháp luật về doanh nghiệp nhà nước, các quy định pháp luật liên quan về quản trị doanh nghiệp, quản lý vốn và tài sản, đất đai, đấu giá, đấu thầu… chưa đồng bộ, chưa phù hợp với đầu tư kinh doanh và quản trị điều hành doanh nghiệp trong kinh tế thị trường. Các quy định về tiền lương và chế độ đãi ngộ khác cho người quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp.

Chưa có một cơ quan quản lý nhà nước được giao làm đầu mối theo dõi, tổng hợp hoạt động của các doanh nghiệp nên chưa tham mưu được cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp toàn diện, kịp thời, hiệu quả đối với hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Đối với các Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty trong thời gian qua có lúc, có nơi còn buông lỏng, chưa hiệu quả nên chưa kịp thời phát hiện và chấn chỉnh kịp thời các vi phạm. Hệ thống quản lý, giám sát không theo kịp với yêu cầu thực tiễn, thiếu hiệu lực và kém hiệu quả, dẫn tới không ngăn ngừa và cảnh báo được các nguy cơ làm một số doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn bị thua lỗ, mất vốn nhà nước.

Từ thực trạng nói trên, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh 8 định hướng, giải pháp quan trọng trong thúc đẩy, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

Trọng tâm là tăng đầu tư, tăng đổi mới sáng tạo và áp dụng khoa học công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động để doanh nghiệp nhà nước thực hiện vị trí, vai trò mở đường, dẫn dắt.

Gắn phát triển doanh nghiệp nhà nước với thực hiện chiến lược phát triển ngành, lĩnh vực của nền kinh tế. Thay đổi nhận thức, quan điểm về cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư nhà nước tại doanh nghiệp. Không áp đặt mệnh lệnh hành chính đối với cổ phần hóa, thoái vốn, thay vào đó, thực hiện theo nguyên tắc và tín hiệu thị trường, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả để cơ cấu lại và huy động thêm vốn phục vụ phát triển doanh nghiệp nhà nước có liên quan.

Xây dựng và phát triển hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia đồng bộ về doanh nghiệp nhà nước, tài sản nhà nước để đánh giá, theo dõi và giám sát; qua đó, có định hướng phù hợp nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các bộ, ngành, địa phương, đặc biệt là Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần thay đổi cách thức làm việc, chủ động thực hiện đầy đủ và hiệu lực các quyền chủ sở hữu tại doanh nghiệp theo quy định pháp luật và thông lệ quốc tế; không can thiệp vào quá trình điều hành, quản trị kinh doanh tại doanh nghiệp.

Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước thông qua việc phân công một bộ làm đầu mối quản lý nhà nước thực hiện giám sát hoạt động của cơ quan đại diện chủ sở hữu.

Xây dựng cơ chế giám sát và nâng cao hiệu quả giám sát hơn theo các phương thức: Đánh giá hiệu quả hoạt động/đầu tư theo chỉ tiêu tài chính tổng thể, không đi theo từng dự án/hoạt động cụ thể; nâng cao trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp.

Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin trong thực hiện giám sát hoạt động để bảo đảm hiệu quả trong việc phát hiện sớm các sai phạm, cảnh báo các nguy cơ làm doanh nghiệp nhà nước bị thua lỗ, mất vốn nhà nước.

Nghiên cứu cơ chế, chính sách tiền lương gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là đối với quản lý cấp cao của doanh nghiệp. Đổi mới công tác quản lý cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cao để tuyển dụng hoặc thuê cán bộ chất lượng cao, có thể xem xét cả các Tổng giám đốc nước ngoài thí điểm tại một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty.