Một là, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.
Đảng ta đã ban hành và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết T.Ư 8 (khóa IX, XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở đó, các ban, bộ, ngành, cơ quan tham mưu chiến lược, nhất là Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao chủ động làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, kịp thời tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng, an ninh (QP, AN) và đối ngoại phù hợp với tình hình thực tiễn.
Bộ Quốc phòng đã thường xuyên chỉ đạo các lực lượng nắm chắc tình hình thế giới, khu vực và trong nước, kiểm soát chặt chẽ tình hình biên giới, vùng trời, vùng biển; chủ động xây dựng kế hoạch, phương án đối phó hiệu quả với các tình huống, không để bị động, bất ngờ về chiến lược. Các lực lượng đã triển khai, thực hiện chặt chẽ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án về QS, QP gắn với phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn cả nước. Những năm gần đây, cán bộ, chiến sĩ Quân đội đã tích cực, chủ động phối hợp với các lực lượng, tham gia giúp đỡ nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn; xử lý bom mìn, chất độc hóa học tồn lưu sau chiến tranh; đấu tranh phòng, chống tội phạm qua biên giới…; góp phần phát huy phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Hai là, nền quốc phòng toàn dân được xây dựng ngày càng vững mạnh toàn diện; có bước phát triển mới cả về bề rộng và chiều sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Chúng ta đã nỗ lực xây dựng nền quốc phòng toàn dân toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại; với bản chất hòa bình, tự vệ. Đó là nền quốc phòng của dân, do toàn dân tham gia xây dựng, lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước.
Đến nay, thế bố trí các lực lượng được điều chỉnh hợp lý trên phạm vi cả nước; quy hoạch xây dựng công trình chiến đấu, công trình phòng thủ được triển khai tích cực, nhất là trên tuyến biên giới, biển, đảo. Chúng ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đẩy mạnh xây dựng và hoạt động các khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố), nâng cao khả năng phòng thủ quốc gia cả trong nội địa, trên các tuyến biên giới và vùng biển, đảo. Công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức QP, AN cho cán bộ, đảng viên và toàn dân được coi trọng, đi vào nền nếp, đạt hiệu quả thiết thực; góp phần tạo cơ sở, nền tảng cho việc triển khai thực hiện nhiệm vụ QP, AN, bảo vệ Tổ quốc của các cấp, các ngành, các tổ chức, lực lượng và toàn dân trong điều kiện mới.
Ba là, chất lượng tổng hợp, sức mạnh, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân không ngừng được nâng cao.
Chúng ta đã chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, chúng ta đã có nhiều giải pháp mang tính đột phá trong xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân. Việc đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy, quản lý kỹ thuật,… được đẩy mạnh, có sự chuyển biến mới về chất lượng. Công tác hậu cần, kỹ thuật được thực hiện tốt, nhất là bảo đảm cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu trên tuyến biển, đảo. Xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 16-7-2011 của Bộ Chính trị (khóa XI). Công tác nghiên cứu khoa học quân sự, khoa học công nghệ quân sự, khoa học xã hội và nhân văn quân sự được chú trọng và có bước phát triển mới, trọng tâm hướng vào các vấn đề về chiến lược QS, QP trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc; các loại hình tác chiến chiến lược, chiến dịch và phương án xử lý các mối đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, bảo đảm sát thực tế, phù hợp với điều kiện mới.
Bốn là, hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng không ngừng được đẩy mạnh, có bước phát triển đột phá cả về nhận thức và hành động; góp phần nâng cao vị thế của đất nước, Quân đội và xây dựng lòng tin chiến lược giữa các quốc gia, thúc đẩy xu thế hòa bình, hợp tác trong khu vực và trên thế giới.
Chúng ta đã tích cực, chủ động mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng song phương với các quốc gia, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, bạn bè truyền thống và các nước lớn; từng bước đưa quan hệ đó đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng ở các cấp độ khác nhau với hơn 80 nước, trong đó có các nước lớn. Trên bình diện đa phương, Việt Nam đã trở thành thành viên tích cực và có trách nhiệm của các diễn đàn khu vực và quốc tế... Đặc biệt, năm 2014, lần đầu tiên Việt Nam cử lực lượng Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Thông qua hội nhập quốc tế, chúng ta đã và đang tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, tạo môi trường thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước.
Năm là, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất, tập trung của Nhà nước và sự tham gia của toàn dân đối với lĩnh vực quốc phòng.
Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta từng bước thể chế hóa cương lĩnh, quan điểm, đường lối của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, về quan hệ giữa kinh tế với QP, AN và QP, AN với đối ngoại thành luật pháp, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch để các cấp, ngành, lực lượng và địa phương triển khai thực hiện. Trong đó, công tác quản lý nhà nước về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được triển khai nghiêm túc, đồng bộ và tương đối toàn diện. Nhà nước đã ban hành Hiến pháp năm 2013, các luật, pháp lệnh,… liên quan đến thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và đã phát huy tốt hiệu lực, hiệu quả trong thực tiễn. Đã bổ sung và hoàn thiện một bước về cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền điều hành, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể làm tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo chức năng, trên phạm vi cả nước.
Qua 30 năm đổi mới QS, QP có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, thường xuyên quán triệt, nắm vững đường lối đổi mới, nhất là quan điểm, tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, lấy đó làm kim chỉ nam cho hoạt động QS, QP.
Với tầm nhìn chiến lược và tư duy khoa học sắc sảo, nắm vững nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Nhờ đường lối đó, Đảng ta đã phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy nội lực kết hợp với ngoại lực, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.
Thời gian tới, chúng ta cần tiếp tục vận dụng bài học kinh nghiệm này trong thực hiện nhiệm vụ QS, QP, bảo vệ Tổ quốc. Trước hết và quan trọng nhất là phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và sự nghiệp quốc phòng. Quán triệt và thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về bảo vệ Tổ quốc, trọng tâm là Nghị quyết Đại hội XII của Đảng; Nghị quyết T.Ư 8 (khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ X. Trên cơ sở đó thống nhất nhận thức, tư tưởng và hành động đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Thứ hai, coi trọng công tác nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình, bảo đảm giữ vững thế chủ động trong mọi tình huống.
Thực tế đã chứng minh, nhờ thực hiện tốt công tác này, chúng ta luôn chủ động và có kế hoạch, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, ngay từ thời bình, bảo đảm “trong ấm, ngoài êm”, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thời gian tới, các cơ quan, đơn vị toàn quân cần phối hợp chặt chẽ với các lực lượng có liên quan, chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình để tham mưu, đề xuất kịp thời cho Đảng và Nhà nước, không để bị động, bất ngờ trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Chúng ta cần chủ động nghiên cứu, nắm vững chiến lược, sách lược của đối tượng, đối tác và chiều hướng phát triển của nó, cũng như các nhân tố có thể dẫn tới những đột biến, bất lợi để xử lý khéo léo, linh hoạt, kịp thời.
Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; tăng cường nội lực kết hợp với ngoại lực trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới của Đảng khẳng định: Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quan trọng, quyết định.
Trong thời gian tới, chúng ta phải tập trung tăng cường tiềm lực quốc phòng; nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang nhân dân, trực tiếp là Quân đội nhân dân và dân quân tự vệ. Tiếp tục xây dựng, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân, trước hết là “thế trận lòng dân” gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc; đẩy mạnh xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố). Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với QP, AN và QP, AN với đối ngoại trong từng quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội; trong đó, chú trọng mở rộng hợp tác quốc phòng với các nước.
Thứ tư, coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn trên lĩnh vực QS, QP.
Nhờ tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cả thực tiễn thành công và chưa thành công, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc vững bước tiến lên. Để tiếp tục vận dụng có hiệu quả bài học đó vào thực tiễn, cùng với nâng cao nhận thức, chúng ta cần tăng cường phối hợp giữa các ban, bộ, ngành, lực lượng và địa phương trong xây dựng kế hoạch, xác định các vấn đề nghiên cứu, tổng kết, bảo đảm tính khoa học, hệ thống, chuyên sâu và có tính định hướng cao.
Hiện nay, trước yêu cầu cao của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhiều vấn đề mới trên lĩnh vực QS, QP đang đặt ra cấp thiết. Vì thế, việc nghiên cứu, tổng kết phải toàn diện, nhưng cần có trọng điểm; trong đó, cần đi sâu vào các vấn đề lớn, có tính xuyên suốt và mang tầm chiến lược; trên cơ sở đó, xác định cơ sở khoa học và thực tiễn để điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện đường lối, chính sách quốc phòng cho phù hợp.
Thứ năm, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp, tạo đột phá trong lĩnh vực QS, QP bảo vệ Tổ quốc.
Những năm qua, quán triệt đường lối đổi mới của Đảng, lĩnh vực QS, QP đã có sự đổi mới toàn diện, đồng bộ cả về nhận thức, tư tưởng và hoạt động thực tiễn; trong đó, các vấn đề về xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng có bước phát triển toàn diện, mang tính đột phá; góp phần tạo sức mạnh tổng hợp, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Việc vận dụng bài học này nhằm đổi mới lĩnh vực QS, QP trong những năm tới phải được thể hiện trên từng mặt công tác, bảo đảm đổi mới phải toàn diện, đồng bộ từ hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành đến tổ chức thực hiện ở tất cả các cấp, nhưng phải phù hợp với đặc điểm của từng lực lượng và có trọng tâm, trọng điểm.
Ba mươi năm đổi mới đất nước nói chung, lĩnh vực QS, QP nói riêng là một giai đoạn lịch sử quan trọng với những thành tựu to lớn và bài học kinh nghiệm quý báu. Đây sẽ là tiền đề, nền tảng rất quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh đổi mới lĩnh vực QS, QP một cách toàn diện, với nhiều giải pháp đồng bộ, góp phần thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.