Thận trọng với chống bán phá giá

Thận trọng với chống bán phá giá

Cho đến nay, Việt Nam đã là đối tượng của các vụ kiện và áp đặt biện pháp trừng phạt chống phá giá nhưng Việt Nam dường như chưa hề tiến hành một vụ điều tra chống bán phá giá nào trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy vậy, rất có khả năng sau khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ tích cực sử dụng biện pháp chống bán phá giá để bảo hộ thị trường trong nước đối với một hay một số dòng sản phẩm nào đó.

Có một vài nghiên cứu cho thấy một số chiều hướng chung về sử dụng biện pháp chống bán phá giá trên thế giới. Thứ nhất, việc sử dụng biện pháp này rất không đều ở các nước. Mười nước hay sử dụng biện pháp này nhất chiếm tới 90% tổng số vụ được báo cáo cho WTO từ 1995-2001. Mười nước này cũng phần lớn là những nước lớn về kinh tế và thương mại, tổng cộng chiếm tới 70% GDP và 50% thương mại toàn cầu.

Thứ hai, việc sử dụng biện pháp này không còn giới hạn ở các nước công nghiệp nữa. Hiện nay, sáu trong mười nước sử dụng biện pháp này nhiều nhất là các nước đang phát triển (Argentina, Brazil, Ấn Độ, Mexico, Nam Phi, và Thổ Nhĩ Kỳ). Các nước đang phát triển khác cũng ngày càng sử dụng biện pháp này nhiều hơn, và mặc dù tỷ trọng của chúng vẫn còn nhỏ nhưng đã tăng rất nhanh (gấp đôi) trong cùng kỳ.

Thứ ba, đối với nhóm 10 nước sử dụng nhiều nhất biện pháp chống bán phá giá, những nhóm lợi ích trong nước bị thiệt hại do bị kiện bán phá giá ở nước ngoài thường lại nhỏ hơn những nhóm lợi ích được lợi từ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá để bảo hộ thị trường trong nước. Điều này cho thấy một thực tế rằng bảo hộ chẳng qua chỉ phản ánh sự xung đột giữa những nhóm lợi ích xuất khẩu ở trong nước với những nhóm lợi ích cạnh tranh với hàng nhập khẩu cũng ở trong nước, chứ không phải là xung đột giữa các quốc gia. Vì vậy, các nghiên cứu nghiêng về phía kết luận cho rằng biện pháp chống bán phá giá của các nước đang phát triển nói trên đã gây ra những tổn hại về phúc lợi cho bản thân nền kinh tế nội địa của họ, và những tổn hại này còn lớn hơn nếu so với trường hợp của các nước đã phát triển có áp dụng các biện pháp chống phá giá.

Hiện thời, các luật định về chống bán phá giá của Việt Nam đi theo mô hình chung như sau: chứng minh có sự tồn tại và ước tính mức độ bán phá giá và mức độ thiệt hại vật chất, cũng như chứng minh mối liên hệ giữa bán phá giá và thiệt hại. Tuy vậy, luật định về chống bán phá giá của Việt Nam có ba đặc điểm lớn.

Thứ nhất, nhiều chi tiết để bỏ ngỏ chờ hướng dẫn bởi các thông tư, nghị định, và do đó là cơ sở tạo bất trắc. Thứ hai, luật định của Việt Nam có tất cả những thiên lệch nghiêng về phía bảo hộ của những điều khoản chống bán phá giá của WTO. Trong số này có việc sử dụng khái niệm một tỷ trọng lớn trong một ngành công nghiệp nào đó là mức ngưỡng để chấp nhận khiếu kiện đòi điều tra bán phá giá (một điều kiện mà những nhà sản xuất nội địa độc quyền, hay những tập đoàn có thể thỏa mãn dễ dàng hơn nhiều so với các ngành công nghiệp cạnh tranh); khả năng lạm dụng quyền lực bởi các cơ quan chức năng, đặc biệt khi chịu tác động mạnh và ngầm của các nhóm lợi ích liên quan; sử dụng các giá trị danh nghĩa định sẵn trong tính toán khi các mức giá so sánh không có từ các nước xuất khẩu, dẫn đến khả năng cố ý lạm dụng để tính toán sai về chi phí và lợi nhuận thích hợp...

Thứ ba, biện pháp chống phá giá của Việt Nam có xu hướng không chỉ là một công cụ để bảo vệ thị trường trong nước mà còn được coi là một công cụ để trả đũa các hành động chống bán phá giá của nước ngoài được cho là bất hợp lý, gây hại cho xuất khẩu của Việt Nam. Do đó, những biện pháp chống phá giá được áp dụng không nhất thiết phản ánh nhu cầu bảo vệ thị trường nội địa một cách chính đáng trước sự xâm nhập ồ ạt của hàng nhập khẩu dưới sự trợ giúp của các hành động bán phá giá từ nước ngoài, và, bởi vậy, là những biện pháp tỏ ra có hại về phúc lợi chung.

Vì vậy, nếu trong tương lai gần Việt Nam theo gương các nước đang phát triển, tích cực áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, cản trở quá trình tự do hóa nền kinh tế theo các cam kết của WTO thì cái giá phải trả về tổn thất phúc lợi chung có thể sẽ rất lớn và tăng theo số vụ việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá ở Việt Nam, giống như kinh nghiệm ở các nước đang phát triển chỉ ra bên trên (ngoài chuyện dễ bị trả đũa bởi các nước đối tác, và do đó tổn thất phúc lợi càng lớn hơn nếu tính cả thiệt hại này).

Do vậy, một yêu cầu cấp bách là Việt Nam phải quản lý chặt việc sử dụng biện pháp chống bán phá giá ở thị trường trong nước. Một giải pháp thận trọng bao gồm những điểm chính sau:

• Không cho phép bảo hộ kép (thí dụ bảo hộ bằng cả thuế trừng phạt và hạn ngạch).

• Các biện pháp chống phá giá không kéo dài quá năm năm.

• Không cho phép sự lặp lại biện pháp chống phá giá trong thời gian ngắn.

• Không cho phép hoặc hạn chế sự cộng dồn mức nhập khẩu từ các nước khác nhau trong việc điều tra phá giá, trừ khi sản phẩm này là do cùng một công ty hoặc chi nhánh của nó làm ra.

• Cấm việc gạt bỏ mọi giao dịch liên quan đến xuất khẩu ra khỏi tính toán giá thành xuất khẩu trong điều tra bán phá giá ở trong nước.

Tóm lại, nếu Việt Nam muốn tiếp tục quá trình tự do hóa thành công thì nên tránh trở thành nước lạm dụng biện pháp chống bán phá giá ở trong nước.