Tham luận của đồng chí Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc tại Đại hội

NDO -

Chiều 27-1, đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc trình bày tham luận tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, với chủ đề “Một số kết quả chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 - 2020; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu giai đoạn 2021 – 2025”. Nhân Dân điện tử trân trọng giới thiệu toàn văn bài tham luận.

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc trình bày tham luận.
Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc trình bày tham luận.

Kính thưa các vị đại biểu - khách quý,

Kính thưa toàn thể Đại hội,

Được sự cho phép của Đoàn Chủ tịch, tôi xin thay mặt Ban Cán sự đảng Ủy ban Dân tộc, trình bày tham luận về một số kết quả chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN) giai đoạn 2016 - 2020; mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu giai đoạn 2021 - 2025.

I. KẾT QUẢ CHỦ YẾU GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

1. Khái quát về vùng đồng bào DTTS và MN

Vùng đồng bào DTTS và MN[1] bao gồm: 5.266 xã, 548 huyện, 51 tỉnh/thành phố. Đây là địa bàn sinh sống chủ yếu của gần 14,2 triệu đồng bào của 53 dân tộc thiểu số; chủ yếu là núi cao, biên giới, hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai bão lũ, sạt lở đất.

Nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, kinh tế - xã hội vùng DTTS và MN đã có bước phát triển mới; đời sống của đồng bào đã được nâng lên rõ rệt nhưng so với mặt bằng chung thì đây vẫn là vùng có điều kiện khó khăn nhất, chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất, kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.

2. Một số chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về đầu tư phát triển vùng đồng bào DTTS và MN

Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bào DTTS và MN. Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã xác định: “Tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền trung. Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc…”.

Quán triệt sâu sắc các nghị quyết, kết luận, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 100/2015/QH14 ngày 12-11-2015 phê duyệt chủ trương đầu tư: Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1600/QĐ-TTg ngày 16-8-2016 phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 2-9-2016  phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Cùng với hai Chương trình Mục tiêu quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2085/QĐ-TTg ngày 31-10-2016 phê duyệt Chính sách đặc thù hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2017 - 2020; Quyết định số 2086/QĐ-TTg ngày 31-10-2016 Phê duyệt Đề án hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số rất ít người giai đoạn 2016 - 2025.

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị đã chỉ đạo tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc. Trên cơ sở đó ban hành Kết luận số 65-KL/TW ngày 30-10-2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX. Bộ Chính trị xác định các quan điểm, chủ trương, mục tiêu, giải pháp của Nghị quyết số 24-NQ/TW vẫn còn nguyên giá trị và yêu cầu các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể nhân dân các cấp tiếp tục thực hiện có hiệu quả tám nhóm giải pháp chủ yếu trong tình hình mới nhằm phát triển bền vững vùng đồng bào DTTS và MN.

Những quyết sách quan trọng trên đây là động lực mạnh mẽ thúc đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và MN, góp phần hoàn thành các mục tiêu đề ra cho giai đoạn 2016 - 2020.

3. Những kết quả chủ yếu đạt được giai đoạn 2016 - 2020

3.1. Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được quan tâm đầu tư đồng bộ, đạt được kết quả quan trọng.

5 năm qua, từ nguồn vốn đầu tư của Nhà nước đã xây dựng hàng vạn công trình đường, điện, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa… phục vụ sản xuất và đời sống của đồng bào. Đến nay: 100% đường từ tỉnh đến trung tâm huyện được rải nhựa hoặc bê-tông hóa; 98,4% xã có đường ô-tô đến trung tâm, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số (được sử dụng điện lưới đạt 96,7%; 100% xã có trường tiểu học, trung học cơ sở; 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7% thôn có nhà văn hóa, nhà sinh hoạt cộng đồng; tỷ lệ thôn có đường giao thông được kiên cố tăng 16,7% so với năm 2015.

3.2. Công tác xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả ấn tượng, được bàn bè quốc tế đánh giá cao; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả bước đầu đáng khích lệ.

Hằng năm, tỷ lệ hộ nghèo vùng DTTS và MN giảm 2-3%; các xã, thôn đặc biệt khó khăn giảm 3-4%; các huyện nghèo giảm 4-5%, có nơi giảm hơn 5%; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo toàn vùng giảm 1,2%; đã có 22 huyện, 125 xã, 1.298 thôn ra khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.

Vùng DTTS và MN đã có 1.052 xã (chiếm 22,3%) đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó 106 xã từ đặc biệt khó khăn phấn đấu trở thành xã nông thôn mới; có 27 huyện ở vùng DTTS và MN (chiếm 6%) đạt chuẩn nông thôn mới.

3.3. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo và dạy nghề ở vùng đồng bào DTTS và MN ngày càng phát triển cả về quy mô, mạng lưới và chất lượng.

Công tác xóa mù chữ, chống tái mù chữ đạt kết quả tốt, tỷ lệ người đủ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết tiếng phổ thông tăng 1,7%; tỷ lệ đi học đúng độ tuổi cấp tiểu học tăng 8%, trung học cơ sở tăng 9%, trung học phổ thông tăng 14,7%. Đã xây dựng được 316 trường phổ thông dân tộc nội trú, 1.097 trường phổ thông dân tộc bán trú; bốn trường và ba khoa dự bị đại học dân tộc, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của con em đồng bào dân tộc thiểu số. Đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho thanh niên dân tộc thiểu số đạt được kết quả bước đầu, quan trọng. Chính sách hỗ trợ cho con em ở địa bàn đặc biệt khó khăn được quan tâm. Kết quả phát triển giáo dục và đào tạo ở vùng DTTS và MN là một trong những kết quả nổi bật trong công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

3.4. Công tác y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, phát triển cả về mạng lưới, trang thiết bị và đội ngũ; chất lượng khám chữa bệnh có chuyển biến tích cực.

Đến nay, vùng DTTS và MN có 99,5% số xã có trạm y tế, 83,5% trạm y tế đạt chuẩn quốc gia (tăng gấp hai lần so với năm 2015); 77,2% số trạm y tế có bác sỹ; 93% người DTTS được cấp thẻ bảo hiểm y tế; tỷ lệ tảo hôn giảm 4,7%, hôn nhân cận huyết giảm 0,9%. Hệ thống y tế dự phòng được quan tâm đầu tư, phát triển, góp phần nâng cao ý thức phòng, chống bệnh của người dân, không để xảy ra dịch bệnh lớn. Vừa qua đã góp phần cùng với cả nước kiểm soát, phòng chống hiệu quả đại dịch Covid-19, tạo nên hình ảnh một Việt Nam đoàn kết, thông minh, sáng tạo, nhân ái, được bạn bè thế giới nể phục.

3.5. Công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc thiểu số đạt được kết quả rõ nét hơn.

Cấp có thẩm quyền tiếp tục công nhận bốn di tích quốc gia đặc biệt, tám di tích lịch sử văn hóa quốc gia; Chủ tịch nước phong tặng, truy tặng 559 nghệ nhân dân gian là người dân tộc thiểu số; hằng năm đã tổ chức tốt ngày hội văn hóa của các dân tộc thiểu số, đã tạo được sức lan tỏa lớn, kết nối tình thân ái giữa các dân tộc với nhau.

Chương trình đưa thông tin về cơ sở miền núi, vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo đạt kết quả tốt. 95% số xã được phủ sóng phát thanh truyền hình; xây dựng được hơn 16.000 điểm bưu điện văn hóa xã, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt, đa dạng của người dân. Đã phát sóng được 22 thứ tiếng dân tộc, phù hợp với từng vùng, miền. Hàng triệu tờ báo được cấp không thu tiền, góp phần chuyển tải chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào.

3.6. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS được quan tâm, có chuyển biến khá rõ nét.

Tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số chiếm khoảng 14,5%; trong đó, giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý các cấp chiếm 17,2%. Quốc hội khóa 14 có 86 đại biểu là người dân tộc thiểu số, chiếm 17,4%. Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng người dân tộc thiểu số khóa XII là 17 đồng chí, chiếm 8,5%. Đại hội các đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020 - 2025: Cấp ủy viên là người dân tộc thiểu số đạt 11,68%, cao hơn nhiệm kỳ trước 0,72%; ủy viên ban thường vụ đạt tỷ lệ 11,86%, cao hơn nhiệm kỳ trước 0,51%; bí thư cấp ủy người dân tộc thiểu số là sáu đồng chí đạt 9,23%, cao hơn nhiệm kỳ trước 1,54%.

 Tỷ lệ đảng viên dân tộc thiểu số tăng từ 10,94% năm 2012 lên 11,98% năm 2019. Hiện nay, 100% cơ quan, trường học, bệnh viện, xã, phường, thị trấn và các doanh nghiệp nhà nước ở vùng DTTS và MN có tổ chức đảng làm hạt nhân lãnh đạo.

3.7. Quốc phòng, an ninh được củng cố và tăng cường, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Lực lượng quân đội, công an làm nòng cốt, đã kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương, nhất là ở các địa bàn trọng yếu, vùng biên giới, nắm vững tình hình, chủ động phát hiện, giải quyết kịp thời các vụ việc, không để xẩy ra các “điểm nóng” về an ninh, trật tự. Bộ đội biên phòng đã cử hàng trăm lượt sĩ quan, chiến sĩ tăng cường xây dựng cơ sở chính trị ở các địa phương vùng biên giới.

4. Một số hạn chế, bất cập, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm

4.1. Một số hạn chế, bất cập

Kết quả thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu, cấp bách đối với vùng đồng bào DTTS ở Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền trung chưa đạt được như mong muốn. So với mặt bằng chung của cả nước, đời sống của đồng bào DTTS vẫn thuộc diện khó khăn nhất. Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao; khoảng cách so với vùng phát triển có xu hướng gia tăng; khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội còn thấp; tình trạng di cư tự phát chưa được giải quyết hiệu quả; cán bộ, công chức, viên chức người DTTS nhiều nơi chưa đạt tỷ lệ theo quy định; hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan ở một số nơi chậm được khắc phục; vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp về an ninh, trật tự.

4.2. Nguyên nhân chủ yếu: Điểm xuất phát của vùng đồng bào DTTS và MN thấp; địa hình hiểm trở, chia cắt, giao thông khó khăn, khí hậu khắc nghiệt; thiên tai, bão lũ xảy ra thường xuyên; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Một số cấp ủy, chính quyền, nhận thức chưa đầy đủ về công tác dân tộc; lãnh đạo, chỉ đạo chưa quyết liệt; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có việc chưa chặt chẽ. Một số chính sách còn chồng chéo, nguồn lực hạn chế, bất cập. Một bộ phận đồng bào DTTS còn bằng lòng với hiện tại, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên.

4.3. Một số bài học kinh nghiệm: Từ thực tiễn công tác giai đoạn 2016-2020, rút ra ba bài học kinh nghiệm như sau:

Một là, phải kiên định, kiên trì thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển; chăm lo công tác dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị.

Hai là, phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động ở vùng đồng bào DTTS và MN; kịp thời chuyển tải chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào; tăng cường nguồn lực đầu tư phát triển KT-XH, tạo sinh kế, giảm nghèo bền vững. Chú trọng củng cố và giữ vững niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước.

Ba là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số; phát triển đảng viên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Phát huy vai trò của đội ngũ người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.

II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIAI ĐOẠN 2021 - 2025

1. Phương hướng, mục tiêu chung

Chúng tôi nhất trí cao với phương hướng, mục tiêu chung về công tác dân tộc và phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và MN giai đoạn 2021 - 2025 đã được trình bày trong dự thảo Báo cáo chính trị: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số”.

Trong 5 năm, từ 2021 - 2025, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phương, cơ sở “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực. Tập trung triển khai hiệu quả các đề án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và MN. Bảo đảm và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi”.

Thực hiện đồng bộ phương hướng, nhiệm vụ nêu trên nhằm đẩy mạnh phát triển KT-XH; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào, bảo đảm an ninh xã hội, thu hẹp dần khoảng cách về thu nhập và mức sống so với vùng phát triển.

2. Các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu

Tiếp tục đổi mới tư duy, quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, thực hiện đồng bộ, hiệu quả tám nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:

2.1. Kiên định, kiên trì thực hiện các quan điểm, đường lối của Đảng; Nghị quyết số 24-NQ/TW và Kết luận số 65-KL/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới. Tiếp tục khẳng định đại đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược, vừa là nhiệm vụ lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của cả hệ thống chính trị.

2.2. Tiếp tục hoàn thiện, xây dựng chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng DTTS và MN theo hướng toàn diện, bền vững; phát huy tiềm năng, lợi thế, khơi dậy tinh thần tự lực, khát vọng vượt khó vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số.

2.3. Nâng cao hiệu quả các chương trình, dự án, mở rộng vốn tín dụng ưu đãi đối với các dự án tạo sinh kế cho đồng bào; đa dạng hoá và xã hội hoá nguồn lực, trong đó, nguồn lực nhà nước có vai trò quan trọng và quyết định để huy động các nguồn lực khác.

2.4. Đẩy mạnh cơ cấu lại kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, phù hợp với tập quán của từng dân tộc. Phát triển các vùng chuyên canh cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao. Chú trọng phát triển du lịch sinh thái, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị văn hoá các dân tộc.

Ưu tiên nguồn lực nhà nước để đầu tư kết cấu hạ tầng theo hướng kiên cố, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai. Bảo đảm các hộ gia đình được sử dụng điện lưới quốc gia, dịch vụ phát thanh, truyền hình, viễn thông, công nghệ thông tin, phục vụ sản xuất và sinh hoạt.

2.5. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Nâng cao chất lượng công tác giáo dục và đào tạo; giữ vững và phát huy thành quả xoá mù chữ, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở. Củng cố, phát triển các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú, các trường, khoa dự bị đại học. Hỗ trợ việc ăn, ở cho học sinh, sinh viên vùng địa bàn đặc biệt khó khăn.

Đổi mới phương thức và chính sách cử tuyển, bồi dưỡng dự bị đại học, đào tạo nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ khởi nghiệp đối với thanh niên dân tộc thiểu số sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và được đào tạo nghề.

Nâng cao tỷ lệ khám, chữa bệnh và chất lượng các dịch vụ y tế, nhất là ở tuyến cơ sở. Phát triển y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại; đẩy mạnh phát triển y tế dự phòng, thực hiện tốt hơn nữa chính sách bảo hiểm y tế, tạo điều kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số được khám, chữa bệnh ở tuyến T.Ư. Xây dựng và thực hiện chiến lược về phòng, chống suy dinh dưỡng ở trẻ em, nâng cao sức khoẻ, tầm vóc của thanh, thiếu niên dân tộc thiểu số.

Nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của người dân. Tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở ở từng vùng, từng địa phương; quan tâm sưu tầm, bảo tồn và phát huy có hiệu quả giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể. Kiên quyết xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, sớm chấm dứt tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống.

2.6. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân gắn với thế trận lòng dân vững chắc; kiên quyết không để xảy ra các "điểm nóng", "điểm phức tạp" về an ninh trật tự, đặc biệt ở các địa bàn chiến lược Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, tây duyên hải miền trung.

2.7. Chú trọng bồi dưỡng phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số, nhất là ở những vùng trọng điểm, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên giới. Biểu dương, tôn vinh, động viên người có uy tín, doanh nhân, nhà khoa học… có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chú trọng phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo tuyển dụng, đãi ngộ cán bộ là người DTTS. Có giải pháp cụ thể, hiệu quả để bảo đảm tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số trong cấp ủy và các cơ quan dân cử các cấp.

2.8. Tập trung cao độ thực hiện thắng lợi Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và MN giai đoạn 2021 - 2030. Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về công tác dân tộc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Kính thưa Đoàn Chủ tịch Đại hội,

Kính thưa toàn thể Đại hội,

Nhân dịp được vinh dự phát biểu trước Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, thay mặt đồng bào các dân tộc thiểu số trong cả nước, chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc đối với Đảng, Nhà nước và Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Xin tri ân công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, các đồng chí lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam Anh hùng; các đồng chí thương binh, bệnh binh, gia đình có công với nước; tri ân công sức của hàng vạn cán bộ, thầy giáo, thầy thuốc, chiến sĩ lực lượng vũ trang và bà con miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi, góp phần quan trọng để đồng bào các dân tộc có được cuộc sống ngày càng sung túc, hạnh phúc như ngày nay.

Đồng bào các dân tộc thiểu số nguyện đoàn kết một lòng “54 dân tộc anh em như cây một cội, như con một nhà”, một lòng sắt son theo Đảng, cùng nhau thống nhất ý chí và hành động, vun đắp tinh thần đại đoàn kết “trường tồn, nở hoa, kết trái”, hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước ta phát triển hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

Xin trân trọng cảm ơn.

-------------

[1]Phân định theo Quyết định số 582/QĐ-TTg ngày 28-4-2017 của Thủ tướng Chính phủphê duyệt danh sách thôn đặc biệt khó khăn, xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2016 – 2020.