Quốc hội cũng đã nghe Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo thuyết minh Hiệp định CPTPP cùng các văn kiện liên quan; Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo thẩm tra về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP cùng các văn kiện liên quan
Sau đó, các đại biểu thảo luận ở tổ về nội dung này.
Tờ trình cho biết, ngày 8-3-2018 tại Santiago, Chile, Bộ trưởng Công thương Trần Tuấn Anh đã ký Hiệp định CPTPP với các Bộ trưởng kinh tế các nước Australia, Brunei Darussalam, Chille, Canada, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Singapore. Sau khi ký Hiệp định, các nước sẽ tiến hành thủ tục pháp lý trong nước, bao gồm việc phê chuẩn Hiệp định theo quy định pháp luật của mình để Hiệp định có hiệu lực.
Hiệp định CPTPP gồm bảy điều và một phụ lục, quy định về mối quan hệ với Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP đã được các nước ký ngày 6-2-2016 tại New Zealand, cũng như xử lý các vấn đề khác liên quan đến tính hiệu lực, cũng như các nước rút khỏi hay gia nhập CPTPP.
Theo đó, về cơ bản Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của TPP, nhưng cho phép các nước thành viên tạm hoãn 20 nhóm nghĩa vụ (gồm 11 nghĩa vụ liên quan đến Chương Sở hữu trí tuệ, hai nghĩa vụ liên quan đến Chương mua sắm của Chính phủ và bảy nghĩa vụ liên quan đến bảy chương là Quản lý hải quan và tạo thuận lợi thương mại, đầu tư, thương mại dịch vụ xuyên biên giới, dịch vụ tài chính, viễn thông, môi trường, minh bạch hóa và chống tham nhũng) để bảo đảm cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành viên trong bối cảnh Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đọcTờ trình.
Tờ trình cũng nêu qua nội dung sơ bộ của Hiệp định TPP, và nhấn mạnh, mặc dù các nước thành viên CPTPP đã quyết định tạm hoãn một số nhóm nghĩa vụ được coi là có mức độ cam kết cao nhưng về tổng thể, Hiệp định CPTPP vẫn được coi là một FTA có chất lượng cao và toàn diện nhất từ trước đến nay.
Ngoài ra, các nước thành viên CPTPP cũng ký với nhau một số cam kết, thỏa thuận song phương dưới hình thức thư, thư trao đổi và bản ghi nhớ. Việt Nam đã nhận hai thư về vấn đề kinh tế thị trường từ Canada và Mexico, ký 64 trao đổi song phương và hai bản ghi nhớ.
Về tác động của Hiệp định CPTPP đối với Việt Nam, Tờ trình cho biết, việc phê chuẩn và thông qua Hiệp định sớm giúp Việt Nam thể hiện cam kết mạnh mẽ đối với đổi mới và hội nhập toàn diện, sâu rộng, khẳng định vai trò và vị thế địa – chính trị của Việt Nam trong khu vực Đông - Nam Á cũng như châu Á – Thái Bình Dương, nâng cao vị thế của Việt Nam trong khối ASEAN, trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Việc tham gia CPTPP cũng giúp Việt Nam nâng cao nội lực, củng cố vị thế để thể hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh…
Tờ trình cũng cho biết, bên cạnh những thuận lợi, việc tham gia CPTPP cũng đặt ra những thách thức về kinh tế, xã hội thu ngân sách, hoàn thiên khung khổ pháp luật, thiết lập các cơ chế quản lý để vừa phù hợp với điều ước quốc tế nhưng cũng bảo đảm sự vững chắc, ổn định về chính trị.
Hiệp định CPTPP sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày ít nhất 6 nước ký kết hoặc 50% số nước ký kết Hiệp định thông báo bằng văn bản với cơ quan lưu chiểu (New Zealand) về việc đã hoàn thành các thủ tục pháp lý cần thiết của nước đó. Các thỏa thuận song phương cũng có hiệu lực cùng thời điểm với Hiệp định.
Đối với các nước đã ký nhưng chưa phê chuẩn Hiệp định vào thời điểm sáu nước đầu tiên đã hoàn thành phê chuẩn, Hiệp định sẽ có hiệu lực sau 60 ngày kể từ ngày thông báo bằng văn bản với cơ quan lưu chiểu về việc đã hoàn thành các thủ tục nội bộ.
Tờ trình cũng cho biết, để bảo đảm thực hiện Hiệp định, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành hữu quan rà soát, hoàn thiện danh mục các luật, pháp lệnh, nghị định cần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới để phù hợp các cam kết trong CPTPP, gồm tám luật, bốn nghị định của Chính phủ, kiến nghị ban hành mới bảy văn bản, gồm sáu nghị định của Chính phủ, một quyết định của Thủ tướng Chính phủ, kiến nghị gia nhập ba điều ước quốc tế.
Trong khi thực hiện, Chính phủ sẽ tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật để có kiến nghị bổ sung, sửa đổi kịp thời nếu cần.
Tờ trình cho biết, đến nay đã có bốn nước hoàn thành việc phê chuẩn là Mexico, Nhật Bản, Singapore, Australia. Các nước còn lại đang trong quá trình phê chuẩn. Tuy nhiên, trong Báo cáo thuyết minh của Chính phủ do Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đọc có bổ sung thêm hai nước mới phê chuẩn là Canada và New Zealand.
Báo cáo thuyết minh Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên quan của Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cũng đề cập đến các thuận lợi và khó khăn khi gia nhập CPTPP trên các lĩnh vực chính trị, an ninh quốc gia và chiến lược đối ngoại, kinh tế, hoàn thiện khung khổ pháp luật, thể chế, lao động, xã hội, thu ngân sách, an toàn, an ninh thông tin…
Báo cáo cho biết, về kinh tế, thị trường của các nước tham gia CPTPP có quy mô lớn với GDP của cả khối chiếm 13,5% GDP toàn cầu, bao gồm Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới. Vì vậy, việc tham gia CPTPP về tổng thể là có lợi cho Việt Nam. Theo kết quả nghiên cứu chính thức được Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện vào tháng 9-2017, CPTPP có thể giúp GDP và xuất khẩu của Việt Nam tăng tương ứng là 1,32% và 4,04% đến năm 2035. Tổng kim ngạch nhập khẩu cũng có thể tăng thêm 3,8%, thấp hơn tốc độ tăng xuất khẩu nên tác động tổng thể đến cán cân thương mại là thuận lợi. Ngoài ra, việc có quan hệ FTA với các nước CPTPP sẽ giúp Việt Nam có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn, từ đó giúp nâng cao tính độc lập tự chủ của nền kinh tế. Thêm vào đó, tham gia CPTPP sẽ giúp ta có cơ hội tham gia chuỗi cung ứng hình thành sau khi CPTPP có hiệu lực, là điều kiện quan trọng để nâng cao trình độ phát triển nền kinh tế, từ đó có thể tham gia vào các công đoạn sản xuất có giá trị gia tăng cao hơn.
Tham gia CPTPP là cơ hội tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp luật kinh tế, trong đó có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế, đồng thời giúp ta có thêm cơ hội hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh bạch và dễ dự đoán hơn, tiệm cận các chuẩn mực quốc tế tiên tiến, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài.
Về mặt xã hội, tham gia CPTPP sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần xoá đói giảm nghèo.
Về các thách thức và giải pháp, Việt Nam đối mặt với thách thức về kinh tế, như cạnh tranh từ hàng nhập khẩu…, cũng như các thách thức khác mà Tờ trình của Chính phủ đã đề cập.
Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo thẩm tra.
Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội khẳng định việc cần thiết phê chuẩn Hiệp định CPTPP, đồng thời nêu một số ý kiến đại biểu Quốc hội băn khoăn về chênh lệch trình độ phát triển kinh tế nước ta với các nước thành viên của Hiệp định còn khá lớn và cho rằng mặc dù Hiệp định mang lại nhiều cơ hội, nhưng đi cùng theo đó là những rủi ro và thách thức đối với các lĩnh vực thương mại, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, thu ngân sách, sở hữu trí tuệ, lao động, an toàn thông tin. Do vậy, Chính phủ cần kiểm soát chặt chẽ những rủi ro, thách thức, có các phương án chủ động ứng phó, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực trong quá trình triển khai thực hiện.
Báo cáo cũng đề cập đến một số nội dung như Việc tuân thủ trình tự, thủ tục đề xuất phê chuẩn Hiệp định CPTPP, tính hợp hiến và mức độ phù hợp của Hiệp định CPTPP với luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, khả năng áp dụng trực tiếp, toàn bộ hoặc một phần Hiệp định CPTPP, yêu cầu sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để thực hiện Hiệp định CPTPP.
Báo cáo cũng kiến nghị việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và các văn kiện liên quan như ban hành một luật để sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật: Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật An toàn thực phẩm cho phù hợp các cam kết theo Hiệp định CPTPP và trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 tháng 5-2019. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung, ban hành một số Nghị định, Quyết định thuộc thẩm quyền của Chính phủ; chỉ đạo rà soát các văn bản pháp quy do địa phương ban hành để sửa đổi, bổ sung phù hợp với các nội dung cam kết.