Những điểm mới của Luật phá sản

“Khai tử” DN dễ dàng hơn

Luật Phá sản quy định, DN không thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là DN lâm vào tình trạng phá sản. Khi DN không thanh toán được các khoản nợ đến hạn, các chủ nợ có yêu cầu, thì tòa án tiến hành các thủ tục “khai tử” DN. Như vậy, thủ tục tiến hành “khai tử” DN theo quy định của Luật Phá sản dễ dàng hơn nhiều so với Luật Phá sản nghiệp năm 1994.

Theo Luật Phá sản nghiệp năm 1994, DN lâm vào tình trạng phá sản là DN gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh, sau khi áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Quy định như vậy đã dẫn đến tình trạng trong thời gian gần 10 năm mà tòa án chỉ làm thủ tục “khai tử” được khoảng 46 DN, trong khi trên thực tế, số lượng DN “chết” mà chưa “chôn” rất nhiều.

Tuy nhiên, quy định trên của Luật Phá sản có thể sẽ làm phát sinh trường hợp các chủ nợ lợi dụng Luật để “giết chết” con nợ, đặc biệt con nợ là các DN đầu tư những lượng vốn lớn vào những phương án sản xuất, kinh doanh có khả năng thu lời cao trong tương lai, nhưng lại chưa có tiền để trả các khoản nợ đến hạn. Để tránh tình trạng này, thiết nghĩ chúng ta cần quy định rõ hơn về vấn đề này trong giai đoạn phục hồi hoạt động kinh doanh của các DN.

Một trường hợp khác có thể phát sinh từ sự dễ dãi hơn của quy định về thủ tục “khai tử” DN của Luật Phá sản là chủ DN hoặc người đại diện hợp pháp của DN tiến hành “khai tử” cho DN để trốn tránh nghĩa vụ trả nợ trước các chủ nợ. Về vấn đề này, trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Phá sản, chúng ta cần quy định rõ trách nhiệm của các chủ DN hoặc người đại diện hợp pháp của DN, kể cả trách nhiệm hình sự.

Tôn trọng quyền và nghĩa vụ của chủ nợ và người lao động

Theo Luật Phá sản, khi nhận thấy DN lâm vào trình trạng phá sản, các chủ nợ không có bảo đảm hoặc có  bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu làm thủ tục phá sản đối với DN đó, mà không cần phải có thời hạn như quy định của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1994. Quy định mới này tránh được tình trạng các chủ nợ trốn tránh gặp con nợ và tòa án không có căn cứ để giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, dẫn đến tình trạng nhiều DN “đã chết” nhưng không được “chôn” như trước đây.

Cụ thể hơn, Luật Phá sản quy định, các chủ nợ chỉ cần nhận thấy DN lâm vào tình trạng phá sản mà nếu càng để lâu thì khoản nợ càng khó thu hồi, sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ nợ, của những cá nhân, tổ chức khác, ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội nói chung, thì các chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN đó.

Đối với người lao động cũng vậy, không cần chờ đến khi DN không được trả lương 3 tháng liên tiếp như quy định tại Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1994, mà theo Luật Phá sản, chỉ cần điều kiện DN không trả được lương và người lao động nhận thấy DN lâm vào tình trạng phá sản thì họ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản DN. Quy định này tôn trọng quyền lợi của người lao động, vì theo đó, kể cả trong trường hợp trong 5 tháng liền mà DN chưa trả lương cho người lao động, nhưng người lao động nhận thấy DN chưa mất khả năng thanh toán và nếu phá sản DN thì ảnh hưởng đến công ăn việc làm, thu nhập của họ, thì họ có quyền quyết định không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản DN.

Ngoài các quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các chủ nợ và người lao động, Luật Phá sản còn quy định về nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản của DN lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể, Luật Phá sản quy định, khi nhận thấy DN lâm vào tình trạng phá sản, trong thời hạn tối đa mà Luật quy định, thì chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN có nghĩa vụ phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản DN đó, nếu không thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Quy định này sẽ khắc phục được tình trạng chủ DN hoặc đại diện hợp pháp của DN có các hoạt động, hành vi trốn tránh trách nhiệm của mình, không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục tuyên bố phá sản DN mà mình đang lãnh đạo khi biết DN đã lâm vào tình trạng phá sản. Trên thực tế, thậm chí có nhiều người lãnh đạo DN biết rõ rằng DN đã “chết”, nhưng vẫn ký các hợp đồng mua hàng hóa, các hợp đồng kinh tế, gây ảnh hưởng đến các DN khác, đến nền kinh tế.

Xác định rõ nghĩa vụ về tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản

Theo Luật Phá sản, nghĩa vụ về tài sản của DN lâm vào tình trạng phá sản được xác định bằng các yêu cầu đòi DN thực hiện nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, mà nghĩa vụ này không có bảo đảm và các yêu cầu đỏi hỏi DN thực hiện nghĩa vụ về tài sản có bảo đảm được xác lập trước khi tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nhưng quyền ưu tiên thanh toán đã bị hủy bỏ.

Đối với những DN lâm vào tình trạng phá sản, khi tiến hành mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản mà được Nhà nước áp dụng các biện pháp đặc biệt về tài sản để phục hồi hoạt động kinh doanh, nếu như Nhà nước nhận thấy DN vẫn có khả năng phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm bảo vệ quyền lợi cho Nhà nước, cho các chủ nợ, cho người lao động và những DN đó sau khi áp dụng các phương pháp phục hồi mà vẫn không phục hồi được hoạt động kinh doanh, phải áp dụng thủ tục thanh lý, thì phải hoàn trả lại giá trị tài sản đã được áp dụng biện pháp đặc biệt cho Nhà nước khi thực hiện việc phân chia tài sản.

Không dùng lại lãnh đạo DN bị phá sản

Luật Phá sản quy định, sau khi DN bị tuyên bố phá sản, người giữ chức vụ giám đốc, tổng giám đốc, chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị của các công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước không được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ DN nhà nước nào. Kể cả những người đại diện phần vốn góp của Nhà nước ở DN khác như công ty TNHH, công ty cổ phần... mà DN đó bị tuyên bố phá sản, thì cũng không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở bất kỳ DN nào có vốn của Nhà nước.

Đối với các chủ DN tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, giám đốc, tổng giám đốc, chủ tịch và các thành viên Hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của DN bị tuyên bố phá sản, thì không được quyền thành lập DN, không được làm người quản lý DN từ một đến ba năm kể từ ngày DN bị tuyên bố phá sản.

Tuy nhiên, Luật cũng quy định rõ các trường hợp sẽ không áp dụng các quy định trên, đó là trong trường hợp DN bị tuyên bố phá sản vì lý do bất khả kháng. Thí dụ, một số DN chăn nuôi gia cầm bị ảnh hưởng bởi dịch cúm gia cầm vừa qua rơi vào tình trạng không có khả năng thanh toán cho các khoản vay ngân hàng để đầu tư chăn nuôi gia cầm.