Mở đường Hồ Chí Minh, quyết định lịch sử của Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh

LTS - Kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh và Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn (19-5-1959 - 19-5-2009), bắt đầu từ hôm nay (20-4), Báo Nhân Dân mở chuyên mục "Kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh và Ngày truyền thống Bộ đội Trường Sơn" đăng các bài nghiên cứu, tổng kết của các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài quân đội, lãnh đạo Ðảng, Nhà nước, đoàn thể, địa phương...

Nhằm khẳng định đường lối, nghệ thuật lãnh đạo chiến tranh cách mạng tài tình của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ôn lại truyền thống vẻ vang của quân đội, của dân tộc đã làm nên đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên Trường Sơn, góp phần to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Trên cơ sở đó giáo dục ý chí tự lực, tự cường, dũng cảm, sáng tạo vượt qua khó khăn gian khổ của quân và dân ta, củng cố, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HÐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Báo Nhân Dân trân trọng kính mời đông đảo cộng tác viên và bạn đọc tham gia viết bài cho chuyên mục.

Tròn nửa thế kỷ trước đây, giữa những ngày cả miền nam đang ngập chìm trong đau thương bởi quân thù tàn sát dã man những người yêu nước, những người "kháng chiến cũ". Tại Thủ đô Hà Nội, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định thành lập tuyến vận chuyển quân sự trên bộ và trên biển chi viện cho Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam cách mạng miền nam. Ðó là một quyết định lịch sử nằm trong tổng thể một loạt các giải pháp tầm chiến lược của Ðảng ta nhằm đẩy mạnh cuộc kháng chiến giải phóng miền nam, bảo vệ miền bắc, thống nhất đất nước trong những điều kiện mới.

Phân tích tình hình quốc tế và cách mạng - miền nam lúc bấy giờ, Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng lần thứ 15(1) do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ tọa đã họp và quyết tâm cao về vấn đề trọng đại này. Hội nghị chỉ rõ con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền nam là phải sử dụng bạo lực cách mạng để thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân chủ nhân dân. Ðể hoàn thành nhiệm vụ đó, hậu phương miền bắc phải đẩy mạnh chi viện cho tiền tuyến lớn miền nam.

Thực hiện chủ trương đó, Ðảng và Nhà nước ta đã quyết tâm xây dựng tuyến vận tải chiến lược, chỉ đạo chặt chẽ quá trình xây dựng, mở rộng, bảo vệ và phát huy vai trò, tác dụng của nó phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngày 5-5-1959, Quân ủy T.Ư ra quyết định thành lập tuyến giao liên quân sự trên bộ (Ðoàn 559). Tiếp đó, tháng 7-1959, tuyến vận tải đường biển chi viện miền nam ra đời (Ðoàn 759). Tháng 1-1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành T.Ư Ðảng họp và đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, cùng với đấu tranh vũ trang. Bộ Chính trị giao cho Quân ủy T.Ư và Ban Thống nhất T.Ư chỉ đạo công tác quân sự ở miền nam, quyết định tăng cường lực lượng chi viện cho cách mạng miền nam; khẩn trương mở rộng tuyến giao thông liên lạc bắc - nam.

Thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Quân ủy T.Ư chủ trương dồn sức người và của tăng cường lực lượng cho Ðoàn 559 mở rộng tuyến vận tải Trường Sơn theo phương châm: Kiên trì giữ vững hành lang phía đông, khẩn trương mở đường vận tải phía tây Trường Sơn. Ðồng thời, mạnh dạn áp dụng phương thức vận tải cơ giới, kết hợp phương thức vận tải thô sơ (xe đạp thồ), chú trọng khai thác đường sông.

Ðược tăng cường lực lượng và bằng những biện pháp tổ chức chặt chẽ, hiệu quả, giữa năm 1964, Ðoàn 559 đã xây dựng được địa bàn hoạt động từ tây Quảng Bình vào đến ngã ba biên giới, triển khai được một số tuyến đường, thành lập các cung đường, binh trạm xây dựng được tuyến hành lang nối liền miền bắc với chiến trường miền nam. Nhờ đó, trong bốn năm thực hiện nhiệm vụ (1961 - 1965), Ðoàn đã vận chuyển cung cấp cho các chiến trường gần 3.000 tấn vật chất các loại, bảo đảm hành quân cho 12 nghìn lượt người qua lại trên đường Trường Sơn.

Từ năm 1965, Mỹ tăng cường sử dụng lực lượng không quân, hải quân leo thang mở rộng đánh phá miền bắc; đồng thời ồ ạt đưa các đơn vị quân bộ của Mỹ và chư hầu vào miền nam tiến hành "chiến tranh cục bộ". Trước tình hình đó, chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân và toàn dân ta trên cả hai miền nam, bắc. "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" là ý chí của hậu phương miền bắc đối với cách mạng miền nam. Từ đây, miền bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, tăng sức chi viện cho miền nam, cho cách mạng Lào và Cam-pu-chia.

Bảo đảm vận chuyển người và phương tiện chiến tranh cùng các loại vật chất cần thiết vào chiến trường trong điều kiện địch đánh phá ác liệt, toàn bộ hệ thống giao thông vận tải từ miền bắc vào các chiến trường đều được chấn chỉnh và tăng cường. Lực lượng vận tải quân sự cùng lực lượng vận tải dân sự ở miền bắc tập trung năng lực phòng không, lực lượng bảo đảm giao thông tăng nhanh về số lượng; hình thành thế trận vừa đánh địch rộng khắp vừa tập trung bảo vệ, bảo đảm các đầu mối giao thông, các địa bàn trọng điểm.

Trên tuyến vận tải chiến lược, Ðoàn 559 không ngừng được tăng cường lực lượng và phương tiện, hình thành binh chủng hợp thành. Trong thế trận đánh địch, bảo đảm giao thông và vận tải quân sự trên toàn tuyến theo phương châm vừa có lực lượng và phương tiện tại chỗ vừa có lực lượng cơ động mạnh. Nhiều cán bộ và nhân viên kỹ thuật thuộc các binh chủng và cơ quan dân sự được điều động vào chiến đấu, công tác trên tuyến đường Trường Sơn.

Khắc phục gian khổ, khó khăn, cán bộ, chiến sĩ, thanh niên xung phong và nhân viên kỹ thuật của Ðoàn 559 đã bền bỉ anh dũng và mưu trí đánh địch, mở đường, bảo đảm giao thông, thực hiện nhiệm vụ trung tâm là tiếp nhận các nguồn hàng từ hậu phương miền bắc gửi vào chi viện tới các chiến trường miền nam. Bốn năm (1965 - 1968), Ðoàn 559 đã chuyển tới chiến trường miền nam và Lào gần 100 nghìn tấn vật chất, bảo đảm cho hơn 200 nghìn lượt người qua lại trên đường Trường Sơn; góp phần đánh bại "chiến tranh cục bộ" ở miền nam và hỗ trợ quân dân nước Lào anh em, đánh thắng "chiến tranh đặc biệt"; tạo điều kiện cho việc hoàn thành nhiệm vụ trong các giai đoạn tiếp theo.

Từ năm 1969 đến năm 1972, thời kỳ Mỹ triển khai hàng loạt âm ưu thủ đoạn nhằm ngăn chặn bằng được mọi nguồn tiếp tế từ miền bắc vào chi viện cho chiến trường miền nam, đặc biệt tuyến vận tải chiến lược từ bắc vào nam. Ðế quốc Mỹ đã sử dụng triệt để những thành tựu mới nhất của khoa học - công nghệ Mỹ với những vũ khí tối tân, có sức công phá và sát thương lớn vào mục đích ngăn chặn tuyến đường. Ðồng thời, tăng cường mật độ đánh phá của không quân, bộ binh và các hoạt động biệt kích trên khu vực Trường Sơn và hệ thống đường đi tới các chiến trường trong tuyến vận tải chiến lược. Cùng lúc, Bộ đội Trường Sơn phải đương đầu với các âm mưu "chiến tranh ngăn chặn" và "chiến tranh hủy diệt" trong thời kỳ "Việt Nam hóa chiến tranh".

Trước tình hình đó, Ðảng và Nhà nước ta, chủ trương tăng cường thêm lực lượng và phương tiện để bảo đảm cho Ðoàn 559 có thêm điều kiện tác chiến bảo vệ giao thông, đủ sức đối phó có hiệu quả mọi âm mưu và thủ đoạn đánh phá ngăn chặn của địch, giữ vững hành lang chi viện cho chiến trường.

Rút kinh nghiệm thời kỳ "chiến tranh cục bộ", hệ thống binh trạm, khu kho, mạng đường các điểm vượt, các đoạn vòng tránh và việc tổ chức cung đoạn, đội hình vận tải... cũng được cải tiến phù hợp tình hình mới... Vì vậy, mặc dù địch đánh phá ác liệt bằng bộ binh, bằng không quân; dội xuống khu vực đường Trường Sơn một khối lượng bom đạn, chất độc hóa học và các loại thiết bị điện tử hiện đại tăng gấp bốn lần thời kỳ Giôn-xơn (1965 - 1968) và gấp 20 lần thời kỳ 1960 - 1964... nhưng tuyến vận tải chiến lược vẫn không ngừng được xây dựng và mở rộng, vươn sâu và vươn xa đến các chiến trường. Nếu trong thời kỳ "chiến tranh cục bộ", Ðoàn 559 mới mở thông trục đường 20 - cửa khẩu vượt đỉnh Trường Sơn, nối với hệ thống đường chiến lược ở sườn phía tây Trường Sơn, rút ngắn cung độ đến các hướng chiến trường... thì từ năm 1968 đến 1972, đã có thêm bốn trục đường từ đông Trường Sơn sang tây Trường Sơn được mở, bao gồm đường 18, 16, 10 và 12, tạo thành hệ thống đường vượt khẩu liên hoàn chống địch ngăn chặn, nâng tổng số chiều dài tuyến đường từ 2.930 km (1968) lên tới gần 11.000 km (1972), chưa kể 6.500 km đường giao liên, gùi thồ. Nhờ đó, trong bốn năm thực hiện nhiệm vụ (1969 - 1972), tuyến vận tải chiến lược đã vận chuyển được tổng khối lượng vật chất đạt 118%; bảo đảm hành quân đạt từ 184 đến 190% so với chỉ tiêu; chi viện cho các chiến trường một khối lượng vật chất và một số lượng nhân lực tăng gấp từ ba đến sáu lần so với bốn năm trước đó(2), đáp ứng kịp thời nhu cầu của cách mạng miền nam, cách mạng Lào và Cam-pu-chia. Ðặc biệt, vào những thời điểm quân và dân miền nam mở cuộc tiến công chiến lược 1972, quân và dân Lào mở cuộc tiến công chiến lược buộc địch phải ký Hiệp định Pa-ri và Hiệp định Viêng Chăn.

Thời kỳ cuối của cuộc chiến tranh (1973 - 1975), nhiệm vụ của tuyến vận tải chiến lược là phải tranh thủ thời cơ, "tiếp tục thực hiện nhiệm vụ vận chuyển chiến lược, tiếp tục bảo đảm hành quân vào các chiến trường... bảo đảm cho các quân khu thực hiện tốt việc tổ chức chiến trường, xây dựng lực lượng dự trữ chiến lược. Ðồng thời phải bảo đảm một phần nhu cầu dân sinh kinh tế, góp phần xây dựng căn cứ địa, vùng giải phóng miền nam và các nước bạn"(3).

Tháng 11-1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn kế hoạch thiết kế, mở rộng tuyến vận tải chiến lược Trường Sơn. Lực lượng công binh của Ðoàn 559 và ngành vận tải miền nam được huy động làm đường. Từ tám trung đoàn và 65 tiểu đoàn năm 1972, lực lượng công binh của Ðoàn 559 đã tăng lên một sư đoàn, 17 trung đoàn và 40 tiểu đoàn với tổng quân số 36.341 người. Bên cạnh lực lượng công binh, lực lượng mở đường còn bao gồm hàng chục nghìn thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến... Ðồng thời, Nhà nước và quân đội còn tăng cường thêm phương tiện cho Ðoàn 559, bao gồm hàng nghìn xe máy các loại phục vụ "mở đường thắng lợi".

Khí thế chiến thắng trên khắp chiến trường cùng với việc lực lượng và phương tiện được bổ sung, có sự tổ chức chặt chẽ càng tạo thêm sức mạnh mới, giúp Ðoàn 559 nhanh chóng mở thêm 3.480 km đường cơ giới với các trục dọc men theo đông và tây Trường Sơn. Số km đường mới mở lớn hơn tổng số chiều dài giao thông được xây dựng trong vòng 13 năm trước đó. Các tuyến đường ngang hỗ trợ cũng được khai thông. Gần 5.000 km đường ống dẫn nhiên liệu lỏng với hệ thống trạm bơm, bể chứa khá hiện đại dẫn từ hậu phương miền bắc, men theo các trục dọc Trường Sơn, vươn tới các chiến trường. Các tuyến đường bộ phía tây được sửa chữa, bảo dưỡng, mở rộng, bảo đảm cho việc vận chuyển cơ giới theo đội hình lớn.

Qua 16 năm xây dựng, từ lối mòn giao liên bí mật len lỏi dưới các triền rừng, với một số đơn vị nhỏ lẻ, tổ chức thành tuyến đường dây lấy phương thức vận tải thô sơ, gùi thồ là chủ yếu, tuyến vận tải chiến lược bắc - nam đã phát triển thành một hệ thống trục dọc và trục ngang, ngày càng vươn xa vào chiến trường, vươn sâu vào các hướng chiến lược, bao gồm một lực lượng hùng mạnh lên tới hơn 120 nghìn người, gồm đủ quân chủng, binh chủng hợp thành, lực lượng thanh niên xung phong, công nhân giao thông, dân công hỏa tuyến... Cùng với sự gia tăng của cuộc chiến tranh, tuyến vận tải chiến lược đã trở thành một mạng đường không thể bị chặn cắt, chuyển vận toàn bộ sức mạnh tiềm tàng và to lớn từ hậu phương miền bắc chi viện cho cách mạng miền nam; cách mạng Lào và Cam-pu-chia; trở thành một chiến trường thu hút và tiêu diệt lớn sinh lực địch; thành chỗ đứng chân và là bàn đạp xuất phát của các binh đoàn chủ lực hùng mạnh tiến xuống giải phóng các tỉnh ven biển miền trung hoặc tham gia lực lượng đánh chiếm Sài Gòn, góp phần xứng đáng làm nên Ðại thắng mùa xuân 1975, hoàn thành sứ mệnh lịch sử lớn lao: Ðộc lập, tự do, thống nhất non sông, vẹn toàn chủ quyền lãnh thổ.

Ðại tá, PGS, TS HỒ KHANG

--------------

(1) Hội nghị T.Ư Ðảng lần thứ 15 họp hai đợt, đợt 1 từ ngày 12 đến 22-1-1959; đợt 2 từ ngày 10 đến 15-7-1959.

(2) 1965 - 1968: Kế hoạch chi viện 85.000 tấn, hành quân 324.000 lượt người; 1969 - 1972: Kế hoạch chi viện 114.820 tấn, hành quân 598.000 lượt người. Dẫn theo Công tác vận tải quân sự chiến lược. Tài liệu lưu hành nội bộ của Tổng cục Hậu cần quân đội, 1984, tr 100.

(3) Nghị quyết số 221/NQÐU 559. Dẫn theo Công tác vận tải quân sự chiến lược. Tài liệu đã dẫn, tr 106 - 107.