Thực hiện phân công của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế được giao chủ trì thẩm tra Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022; dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023. Trên cơ sở Báo cáo số 414/BC-CP ngày 14/10/2022 của Chính phủ, Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 16, tổng hợp ý kiến của các cơ quan của Quốc hội, ý kiến của các thành viên Ủy ban và các đại biểu dự Phiên họp toàn thể, Ủy ban Kinh tế xin thay mặt Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội báo cáo Quốc hội như sau:
I. Bối cảnh và tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022
Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với nhiều nội dung trong Báo cáo của Chính phủ về kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022. Báo cáo được xây dựng công phu, chi tiết; các nhận định, đánh giá cơ bản đã bám sát Nghị quyết số 32/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022 và các nghị quyết khác của Quốc hội có liên quan và sát với tình hình thực tế hiện nay; tiếp thu tối đa theo Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến của các cơ quan của Quốc hội tại phiên họp thẩm tra; thể hiện sự chủ động, công tác phối hợp hiệu quả giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ. Đồng thời, Ủy ban Kinh tế xin nhấn mạnh một số nội dung chính như sau:
1. Bối cảnh
Hồi phục tích cực trong năm 2021, tuy nhiên, kinh tế toàn cầu bước vào năm 2022 với vị thế yếu hơn kì vọng. Biến thể Omicron lây lan nhanh khiến nhiều nước tái áp đặt các biện pháp phong tỏa, hạn chế đi lại. Giá năng lượng tăng và đứt gãy chuỗi cung ứng dẫn đến lạm phát cao hơn và ở diện rộng hơn so với dự báo. Sự suy thoái của lĩnh vực bất động sản và sự phục hồi chậm hơn dự kiến của tiêu dùng nội địa ở Trung Quốc làm hạn chế triển vọng tăng trưởng. Ngay từ đầu năm, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2022 còn 4,4% – thấp hơn 0,5 điểm % so với dự báo hồi tháng 10/2021 do triển vọng tăng trưởng của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ và Trung Quốc đều giảm.
Đà phục hồi của kinh tế thế giới còn chưa vững chắc, lạm phát toàn cầu đang là vấn đề nan giải thì xung đột tại Nga-Ukraine, các lệnh trừng phạt của Mỹ và các nước phương Tây đối với Nga, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 tại Trung Quốc; thiên tai, lũ lụt, hạn hán tại nhiều quốc gia… đã dẫn đến tình trạng giá hàng hóa thế giới tăng vọt, nhất là giá năng lượng; giá vật tư, hàng hóa nông nghiệp cũng tăng mạnh, làm trầm trọng thêm tình trạng mất an ninh lương thực, tình trạng nghèo đói ở nhiều nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.
Những rủi ro này có thể làm chậm lại hơn nữa quá trình phục hồi của nền kinh tế thế giới sau hơn 2 năm bị tác động nặng nề bởi dịch Covid-19. Trong số đó, rủi ro đáng quan ngại nhất là khả năng lạm phát toàn cầu cao kèm theo tăng trưởng suy giảm – giống như thời kỳ lạm phát đình trệ những năm 1970. Điều này đã dẫn đến việc thắt chặt chính sách tiền tệ ở các nền kinh tế phát triển để kiềm chế lạm phát, kèm theo đó là chi phí đi vay tăng cao có thể dẫn tới căng thẳng tài chính ở một số nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.
Thực tế, trong nửa đầu năm 2022, nhiều nền kinh tế lớn ghi nhận giảm tốc tăng trưởng, thậm chí đối mặt nguy cơ suy thoái. IMF (tháng 10/2022) đã tiếp tục điều chỉnh dự báo tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 xuống 3,2%, giảm mạnh 1,2 điểm % so với dự báo đưa ra hồi tháng 1/2022, trong đó, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới đều bị hạ dự báo tăng trưởng khá mạnh . IMF cũng hạ dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2023 xuống còn 2,7%. Ngoài ra, sự tăng giá của đồng đô la Mỹ cũng làm tăng trưởng thương mại thế giới chậm hơn do vai trò chi phối của đồng tiền này cũng như ảnh hưởng tiêu cực đối với nhập khẩu ở các nước có nợ phải trả bằng đô la Mỹ. IMF (tháng 10/2022) dự báo tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ thế giới năm 2022 là 4,3%, giảm 1,7 điểm % so dự báo đầu năm.
Tiếp nối xu hướng từ năm 2021, lạm phát tại hầu hết các nền kinh tế trên thế giới tiếp tục tăng, đặc biệt nhiều nền kinh tế lớn ghi nhận mức lạm phát tăng cao lên mức kỷ lục. Tại Mỹ, lạm phát tháng 8/2022 tăng so cùng kỳ là 8,3%; khu vực Eurozone cũng tăng ở mức 9,1%; đặc biệt, Thổ Nhĩ Kỳ đã ghi nhận mức tăng 80,21%... Ngân hàng thế giới (WB) đã chỉ ra rằng, các cú sốc giá dầu và sốc cung là nguyên nhân chính khiến lạm phát thế giới tăng cao kể từ đầu năm 2021 đến nay, nhất là lạm phát và lạm phát lõi tại các nền kinh tế phát triển. Về triển vọng trung hạn, lạm phát thế giới được dự báo sẽ đạt đỉnh trong năm 2022, giảm dần trong năm 2023 và trở về mức trước dịch Covid-19 vào năm 2024 .
Ở trong nước, kinh tế-xã hội tiếp tục phục hồi mạnh mẽ với nhiều điểm sáng. Các chính sách hỗ trợ kịp thời được ban hành; triển khai khẩn trương Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, bước đầu đã phát huy hiệu quả. Việc kiểm soát được dịch Covid-19 là nền tảng quan trọng để mở cửa nền kinh tế, đưa đời sống người dân trở lại trạng thái bình thường mới ngay từ đầu năm.
2. Về tình hình thực hiện Kế hoạch phát kinh tế-xã hội năm 2022
2.1. Về thực hiện mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu chủ yếu
Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với các kết quả đạt được theo Báo cáo của Chính phủ. Trong bối cảnh, tình hình thế giới và trong nước có những diễn biến mới, nhanh chóng và phức tạp, gây ra không ít khó khăn, thách thức lớn hơn so với dự báo, nhưng do có sự lãnh đạo sáng suốt, sát sao, kịp thời của lãnh đạo Đảng và Nhà nước; sự đồng hành chủ động, tích cực, linh hoạt và giám sát chặt chẽ, hiệu quả của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành sâu sát, quyết liệt, bài bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự đoàn kết, phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành; sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị; sự ủng hộ của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp và kết quả tốt đẹp của hội nhập quốc tế, chúng ta đã thực hiện thắng lợi, khá toàn diện mục tiêu, nhiệm vụ: Vừa tập trung phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh, vừa thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và hiệu quả.
Trước hết, công tác phòng, chống dịch Covid-19 được Đảng, Nhà nước lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, liên tục với phương châm “thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát có hiệu quả dịch bệnh Covid-19”, từng bước mở cửa, phục hồi các hoạt động kinh tế-xã hội. Quốc hội đã kịp thời thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, thông qua các kế hoạch trung hạn 5 năm 2021-2025 và đặc biệt đã thông qua Nghị quyết số 30/2021/QH15 cho phép Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chính quyền địa phương được thực hiện các biện pháp đặc thù, đặc cách và đặc biệt, có thể khác với quy định của pháp luật hiện hành hoặc chưa có quy định pháp luật. Căn cứ Nghị quyết số 30, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và triển khai rất nhiều chính sách cụ thể, hỗ trợ người dân và cộng đồng doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của dịch Covid-19.
Sau đó, tại Kỳ họp bất thường lần đầu tiên trong lịch sử, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, cùng với đó là Nghị quyết số 11-NQ/CP của Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội và triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15, cộng với tập trung triển khai “thần tốc” Chiến dịch tiêm chủng vắc-xin Mùa Xuân năm 2022, dịch bệnh cơ bản đã được kiểm soát tốt, tỷ lệ chuyển nặng, tử vong rất thấp so với các nước , đã giúp kinh tế-xã hội tiếp tục phục hồi mạnh mẽ với nhiều điểm sáng. Cả năm dự kiến đạt và vượt 14/15 chỉ tiêu được giao theo Nghị quyết số 32/2021/QH15, nổi bật là:
- Về tăng trưởng kinh tế, bất chấp nhiều nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới gặp nhiều khó khăn và tăng trưởng có chiều hướng suy giảm, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam có sự phục hồi tích cực kể từ đầu năm 2022. GDP 9 tháng năm 2022 tăng 8,83% so với cùng kỳ, là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong giai đoạn 2011-2022, nhất là Quý III tăng 13,67%. Đà phục hồi tăng trưởng được ghi nhận ở cả 3 khu vực của nền kinh tế; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là động lực tăng trưởng với tốc độ tăng 10,69%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ các năm 2011, 2017 và 2018. Một số ngành dịch vụ nhanh chóng phục hồi và có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm toàn nền kinh tế.
Xét theo địa bàn, sự phục hồi kinh tế diễn ra khá đồng đều giữa các địa phương khi có 44/63 tỉnh/thành phố ghi nhận tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn GRDP đạt trên 6% . Ước cả năm 2022, tốc độ tăng trưởng GDP đạt khoảng 8%, dự kiến là mức cao của thế giới, vượt mức chỉ tiêu phấn đấu và đạt chỉ tiêu theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ so với giai đoạn 2020-2021, tạo vị thế và động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế của các năm tiếp theo.
- Ổn định vĩ mô được duy trì, lạm phát được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm trong bối cảnh chịu áp lực lớn từ diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới. Bình quân 9 tháng năm 2022, CPI tăng 2,73% so với cùng kỳ năm trước; lạm phát cơ bản tăng 1,88%. Ước cả năm, CPI tăng khoảng 4%, đạt mục tiêu đề ra. Công tác điều hành giá đạt được một số kết quả, nhiều giải pháp được triển khai để giảm giá xăng dầu, ổn định giá điện, nước, học phí, giá sách giáo khoa. Tổng thu ngân sách nhà nước 9 tháng năm 2022 đạt 1.327,3 nghìn tỷ đồng, bằng 94% dự toán, tăng 22% so với cùng kỳ. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội cả năm 2022 ước tăng 10,7%, tương đương khoảng 33,9-34,1% GDP. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI giải ngân cả năm dự kiến đạt 21-22 tỷ USD, tăng khoảng 6,4-11,5%. Xuất khẩu hàng hóa tiếp tục tăng cao; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa 9 tháng đạt 558,52 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 17,27%, nhập khẩu tăng 13%. Cán cân thương mại hàng hóa 9 tháng ước tính xuất siêu 6,52 tỷ USD. Các cân đối khác của nền kinh tế như cân đối lương thực, cân đối điện năng phục vụ cho phát triển kinh tế và sinh hoạt của người dân cơ bản được bảo đảm.
- Số doanh nghiệp thành lập mới tăng cao, đặc biệt phục hồi mạnh mẽ trong các lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19. Số doanh nghiệp thành lập mới và hoạt động trở lại trong 9 tháng năm 2022 là hơn 163 nghìn doanh nghiệp, mức cao nhất trong giai đoạn cùng kỳ từ trước đến nay, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm 2021; các lĩnh vực khác như hàng không, du lịch, lữ hành đã nhanh chóng khôi phục, hoạt động du lịch tại nhiều địa phương có nhiều dấu hiệu khởi sắc; có 15/17 ngành có số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm 2021, trong đó, đáng chú ý là lĩnh vực dịch vụ: Dịch vụ lưu trú và ăn uống (tăng 51,7%); Hoạt động dịch vụ khác (tăng 50,8%).
- Thị trường tiền tệ cơ bản ổn định, lãi suất, tỷ giá được điều hành linh hoạt góp phần kiểm soát lạm phát, hướng tín dụng vào các ngành nghề, lĩnh vực ưu tiên. Trong bối cảnh Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đẩy mạnh lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất ở mức độ lớn với tần suất cao, USD tăng giá trên thị trường thế giới, nhiều đồng tiền mất giá lớn so với USD , tỷ giá đã được điều hành tương đối linh hoạt, tỷ giá VND/USD trong 9 tháng năm 2022 tăng khoảng 4,8% và được đánh giá là một trong những đồng tiền ổn định nhất trong khu vực. Thanh khoản thị trường tiền tệ được bảo đảm, sẵn sàng cung ứng vốn cho sản xuất, kinh doanh nhưng vẫn kiểm soát được lạm phát. Điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; đến ngày 30/9/2022, tín dụng toàn nền kinh tế đạt khoảng 11,59 triệu tỷ đồng, tăng 11,04% so với cuối năm 2021 và tăng 16,99% so với cùng kỳ năm 2021 do cầu tín dụng tăng ngay từ đầu năm, phù hợp với diễn biến phục hồi của nền kinh tế.
- Hoạt động đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học, công nghệ được thúc đẩy. Thị trường khoa học công nghệ tiếp tục được quan tâm phát triển, từng bước phát huy vai trò cầu nối, gắn kết hoạt động khoa học công nghệ với sản xuất, kinh doanh. Việc thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia được đẩy nhanh tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh. Tăng cường liên kết các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước; xây dựng, phát triển và hoàn thiện hạ tầng thông tin, thống kê khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về khoa học công nghệ.
- Công tác quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường được tăng cường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai; thực hiện các cam kết COP26. Ước cả năm 2022, tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị đạt khoảng 89,5%, tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt khoảng 91%, tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 42%, đạt mục tiêu đề ra.
- Lĩnh vực văn hóa, giáo dục có nhiều chuyển biến tích cực. Hội nghị Văn hóa toàn quốc đã có tác động rất lớn, tạo sự chuyển biến tích cực trong toàn ngành văn hóa, cũng như ở các địa phương. Hoạt động văn hóa được đẩy mạnh, nhiều sự kiện, kỷ niệm những ngày lễ lớn được tổ chức thành công. Đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ngày càng được bảo đảm tốt hơn. Công tác bảo tồn di sản văn hóa được chú trọng , nhiều di sản văn hóa được xếp hạng, bảo tồn và phát huy. Thể thao quần chúng tiếp tục được đẩy mạnh với nội dung và hình thức phong phú, đa dạng. Tổ chức và tham dự nhiều giải thể thao lớn trong khu vực và trên thế giới. SEA Games 31 được tổ chức thành công trên nhiều phương diện, thực hiện tốt vai trò của nước chủ nhà, bảo đảm an toàn, tiết kiệm, để lại nhiều ấn tượng với nhân dân cả nước và bạn bè khu vực.
Ngành giáo dục khắc phục khó khăn, chủ động, linh hoạt trong chỉ đạo, điều hành, kịp thời chuyển đổi kế hoạch học tập, giảng dạy phù hợp với thực tiễn. Công tác chuẩn bị, tổ chức triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được thực hiện theo đúng lộ trình. Kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2022 được tổ chức an toàn, nghiêm túc, có nhiều đổi mới trong công tác ra đề thi. Nhiều chủ trương mới được chỉ đạo triển khai nhằm tăng cường xây dựng văn hóa học đường, an toàn trường học cho học sinh, sinh viên.
Công tác thông tin, truyền thông được tập trung chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả, nhất là tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các sự kiện lớn của đất nước, về công tác phòng, chống dịch Covid-19 và ổn định sản xuất, từng bước phục hồi kinh tế; phản ánh trung thực đời sống xã hội, góp phần củng cố niềm tin và tạo đồng thuận xã hội. Công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo được quan tâm, tăng cường; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cơ bản ổn định, đúng pháp luật.
Công tác thanh niên, thiếu niên và nhi đồng được quan tâm. Nhiều giải pháp đảm bảo quyền trẻ em được tăng cường tổ chức thực hiện, nhất là trong giai đoạn dịch bệnh Covid-19. Chủ động thực hiện giải pháp phòng ngừa, kiểm soát, giảm thiểu nguy cơ trẻ em bị bạo lực, xâm hại, bị tai nạn, thương tích.
- Các lĩnh vực của đời sống xã hội tiếp tục phát triển toàn diện hơn. Hệ thống chính sách xã hội đã cơ bản công bằng, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, bảo đảm cơ bản quyền an sinh của người dân, góp phần phát triển kinh tế, ổn định chính trị và trật tự xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Giảm nghèo tiếp tục là điểm sáng được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, ước tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều cuối năm 2022 giảm khoảng 1% so với cuối năm 2021. Năng lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội được nâng cao.
- Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và hoạt động tư pháp tiếp tục được đẩy mạnh. Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cải cách tư pháp, thi hành án dân sự, nhất là xử lý các vụ việc phức tạp, kéo dài, xử lý thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế và án tín dụng, ngân hàng tiếp tục được quan tâm, tập trung chỉ đạo quyết liệt .
- Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, cục diện đối ngoại được giữ thuận lợi, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị hết sức phức tạp; bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, công trình trọng điểm, sự kiện chính trị, văn hóa, đối ngoại quan trọng của đất nước, hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các đoàn khách quốc tế đến Việt Nam. Công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, phòng chống tội phạm được triển khai quyết liệt với cách làm mới, biện pháp mới, tạo chuyển biến tích cực về trật tự, an toàn xã hội, kiềm chế gia tăng tội phạm góp phần từng bước xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an ninh, an toàn, lành mạnh. Công tác đối ngoại chủ động, tích cực, toàn diện, đạt nhiều kết quả quan trọng, việc trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc tiếp tục khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
2.2. Về một số vấn đề cần quan tâm
Để nhìn nhận đầy đủ, toàn diện hơn tình hình phát triển kinh tế-xã hội năm 2022, trên cơ sở bám sát các nhóm nhiệm vụ, giải pháp theo Nghị quyết số 32/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022 và các nghị quyết chuyên đề khác của Quốc hội, Ủy ban Kinh tế đề nghị quan tâm, đánh giá sâu, kỹ hơn một số vấn đề sau đây:
(1) Về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, mặc dù Chính phủ đã quyết liệt triển khai song kết quả còn khiêm tốn. Đến cuối tháng 8/2022, vẫn còn 2 trên tổng số 17 văn bản để cụ thể hóa chính sách theo yêu cầu của Nghị quyết 11/NQ-CP chưa được ban hành. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ vẫn còn một số điều kiện bất cập dẫn tới doanh nghiệp khó tiếp cận và thụ hưởng; các thủ tục hành chính còn phức tạp, các điều kiện để được hưởng chính sách chưa rõ ràng, làm giảm hiệu quả của chính sách.
Tỷ lệ giải ngân các chính sách hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội còn khá thấp, tính đến ngày 28/9/2022 mới đạt 20% tổng số vốn của Chương trình. Giải ngân gói đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, điều hòa vốn dành cho các dự án thuộc Chương trình và Kế hoạch đầu tư công trung hạn triển khai chậm. Gói hỗ trợ lãi suất 2% qua hệ thống ngân hàng thương mại có tỷ lệ giải ngân rất thấp (tính đến hết tháng 8/2022 mới chỉ đạt khoảng 13,5 tỷ đồng/ gần 16.035 tỷ đồng phân bổ cho năm 2022 trong tổng số 40 nghìn tỷ đồng gói hỗ trợ lãi suất), cần phải được báo cáo rõ nguyên nhân. Có ý kiến đề nghị nghiên cứu việc mở rộng đối tượng, ngành nghề được hỗ trợ lãi suất 2%. Có ý kiến cho rằng việc sử dụng 1 nghìn tỷ đồng để trang bị máy tính bảng thực hiện Chương trình “Sóng và máy tính cho em” có thể không còn phù hợp với bối cảnh hiện tại…
Đề nghị đánh giá cụ thể hơn kết quả, tình hình triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội theo từng chính sách cụ thể, trong đó bao gồm cả việc sử dụng Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ của doanh nghiệp, việc tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại Nhà nước và ngân hàng thương mại do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ; mục tiêu“phấn đấu giảm lãi suất cho vay khoảng 0,5-1% trong 2 năm 2022 và 2023, nhất là đối với lĩnh vực ưu tiên” khó thực hiện, lãi suất không giảm mà có xu hướng tăng . Đối với các hạn chế, vướng mắc cần làm rõ hơn nguyên nhân và đề xuất giải pháp đẩy nhanh tiến độ trong thời gian tới, bảo đảm phù hợp với bối cảnh của tình hình hiện nay. Có ý kiến cho rằng bối cảnh hiện nay đã có nhiều điểm khác so với thời điểm xây dựng và ban hành Nghị quyết số 43, điều này cho thấy Chính phủ cần xem xét điều chỉnh, hoàn thiện một số chính sách trong quá trình thực thi, bảo đảm tính hợp lý, cân đối đa chiều giữa kinh tế, xã hội và môi trường, giữa ngắn hạn và dài hạn.
(2) Về kết quả thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu, đề nghị làm rõ nguyên nhân tốc độ tăng năng suất lao động xã hội, một trong các chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đạt thấp hơn so với mục tiêu (ước tăng 4,7-5,2%, mục tiêu là 5,5%), trong khi tăng trưởng kinh tế dự kiến vượt khoảng 2% so với kế hoạch và GDP bình quân đầu người cũng dự kiến vượt kế hoạch, cho thấy chất lượng nền kinh tế còn hạn chế, tăng trưởng còn phụ thuộc nhiều vào yếu tố vốn và lao động, từ đó làm rõ hơn bức tranh về động lực tăng trưởng giai đoạn hiện nay; đồng thời, cần đánh giá kỹ và chính xác hơn việc ước thực hiện chỉ tiêu tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế năm 2022 đạt 92% (đến hết tháng 8 mới đạt 88%).
Ngoài ra, đề nghị giải thích việc số liệu ước cả năm 2022 cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu khoảng 1 tỷ USD trong khi ước 9 tháng đầu năm xuất siêu 6,52 tỷ USD và làm rõ nhận định “dự báo hoạt động xuất, nhập khẩu sẽ tiếp tục khởi sắc” khi dấu hiệu suy giảm xuất khẩu đang trở nên rõ nét hơn trong thời gian gần đây , cùng với đó, bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục dự báo còn nhiều khó khăn trong những tháng cuối năm, tiêu dùng các mặt hàng không thiết yếu nhập khẩu chịu ảnh hưởng, cầu hàng hóa nhập khẩu từ các nước là đối tác thương mại chính như Mỹ, EU sụt giảm, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu dệt may, đồ gỗ và lâm sản, da giầy, gốm sứ… đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt, thậm chí bị hủy đơn hàng trong những tháng cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Đồng thời, Chính phủ cần lưu ý, sớm nghiên cứu có giải pháp với tình trạng nhập siêu dịch vụ kéo dài nhiều năm qua vẫn chưa được cải thiện .
(3) Xây dựng dự toán thu ngân sách nhà nước không sát thực tế, còn quá thận trọng có thể đã làm giảm không gian của chính sách tài khóa, thu ngân sách 9 tháng đã đạt 94%, ước cả năm vượt dự toán hơn 14%. Vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương theo quy định của Hiến pháp và Luật Ngân sách nhà nước chưa được bảo đảm. Tỷ trọng thu ngân sách trung ương đang có xu hướng giảm dần trong tổng thu ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, đặc biệt trong việc cân đối nguồn lực cho thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, các dự án quan trọng quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh của cả nước và các vùng theo Chủ trương của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội.
Chất lượng thu ngân sách nhà nước còn chứa đựng yếu tố chưa bền vững, phần lớn tăng thu từ đất, dầu thô (đạt 213% dự toán do giá bình quân tăng 47,05 USD/thùng so với dự toán), xổ số kiến thiết, trong khi thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh tăng chậm. Thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp 3 năm không đạt dự toán, số thu thực tế rất thấp so với dự toán năm 2022, chỉ đạt 2,8 nghìn tỷ đồng, giảm 37,2 nghìn tỷ đồng so với dự toán. Ngoài ra, đề nghị phân tích, báo cáo làm rõ việc thu ngân sách nhà nước tăng cao trong bối cảnh số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, ngừng hoạt động chờ giải thể tăng cao và Nhà nước đang thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế, phí, lệ phí để hỗ trợ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, có ý kiến cho rằng thu ngân sách nhà nước có dấu hiệu giảm trong những tháng sắp tới, không giống xu thế thông thường cũng là vấn đề cần quan tâm làm rõ.
Có ý kiến cho rằng việc dự toán thu ngân sách nhà nước quá thận trọng có thể khiến Việt Nam tự thu hẹp không gian tài khóa của mình, bên cạnh đó, việc cắt giảm chi thường xuyên (nhất là cho duy tu bảo dưỡng hệ thống cơ sở hạ tầng đã đưa vào sử dụng) một cách máy móc sẽ tiềm ẩn rủi ro làm giảm hiệu quả sử dụng.
(4) Về chi ngân sách nhà nước, tiến độ giải ngân chi đầu tư phát triển tiếp tục chậm, vẫn là điểm nghẽn chưa được giải quyết hiệu quả, ước giải ngân vốn đầu tư công đến ngày 30/9/2022 là 253.148,12 tỷ đồng, mới chỉ đạt 46,7% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, thấp hơn với cùng kỳ năm 2021 (47,38%); riêng vốn ODA mới chỉ giải ngân được khoảng 15%. Một số địa phương có tỷ lệ giải ngân tốt; tuy nhiên, có tới 39/51 bộ, cơ quan trung ương và 22/63 địa phương có tỷ lệ giải ngân đạt dưới mức trung bình của cả nước (46,7%), trong đó có 14 bộ, cơ quan trung ương có tỷ lệ giải ngân dưới 20% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Điểm nghẽn đầu tư công tác động tiêu cực đến việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Báo cáo của Chính phủ đã nêu rõ 3 nhóm nguyên nhân chính và một số nguyên nhân khác như vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng, khan hiếm nguồn cung đất đắp nền đường, các địa phương lúng túng trong việc triển khai áp dụng các cơ chế đặc thù trong khai thác mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng… Đề nghị tiếp tục nghiên cứu, đề xuất các giải pháp cụ thể, hiệu quả hơn nữa để nhanh chóng giải quyết tình trạng này, khơi thông nguồn lực cho phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội.
Mặc dù kinh tế trong nước phục hồi, các tổ chức quốc tế đánh giá tích cực về triển vọng, tuy nhiên, thu hút FDI 9 tháng năm 2022 giảm 15,3% so với cùng kỳ, nhất là vốn đăng ký cấp mới chỉ bằng 57%, chưa tận dụng hiệu quả các cơ hội từ xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư. Cùng với giải ngân đầu tư công đạt thấp, cần đánh giá kỹ lưỡng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và các năng lực sản xuất mới cho năm 2023 và các năm tiếp theo cả về thể chế, chính sách và nhất là khâu tổ chức thực hiện. Việc sụt giảm vốn FDI đăng ký có thể ảnh hưởng đến số vốn FDI giải ngân trong tương lai và do đó, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Đề nghị đánh giá tình hình, nhận định nguyên nhân và có giải pháp khắc phục. Ngoài ra, đề nghị bổ sung đánh giá khả năng áp dụng Quy tắc thuế tối thiểu toàn cầu theo Chương trình cải cách thuế toàn cầu nhằm hướng tới việc chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS) và tác động đến thu hút đầu tư vào Việt Nam trong thời gian tới để có các giải pháp phù hợp.
(5) Việc triển khai các dự án quan trọng quốc gia như Dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020, Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng Hàng không quốc tế Long Thành và Dự án đầu tư xây dựng Cảng Hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn 1… còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến tiến độ của các dự án.
Qua giám sát cho thấy việc triển khai dự án cao tốc Bắc-Nam có một số vướng mắc như công tác giải phóng mặt bằng vẫn còn chậm; việc khảo sát, điều tra về mỏ vật liệu của Tư vấn, các Ban quản lý dự án chưa sát với thực tế, thủ tục cấp phép khai thác mỏ ở một số địa phương kéo dài, một số mỏ vật liệu đã được cấp phép nhưng chưa khai thác được do phải thực hiện thủ tục về chuyển đổi mục đích sử dụng đất, các thủ tục thuê đất, thực hiện các nghĩa vụ về thuế, phí… dẫn đến thiếu nguồn vật liệu đất đắp nền đường, gây khó khăn cho các nhà thầu.
Một số nhà thầu thi công cũng chưa quan tâm, chủ động trong công tác nguồn vật liệu trong quá trình đấu thầu và thực hiện hợp đồng; giá nhiên liệu, nguyên vật liệu xây dựng biến động lớn dẫn đến hiện tượng các nhà thầu có tâm lý thi công cầm chừng, chờ giá xuống, chờ điều chỉnh giá; thời tiết trên địa bàn một số tỉnh có dự án đi qua diễn biến không thuận lợi, ảnh hưởng do dịch Covid-19 ở giai đoạn đầu (nhất là từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2021); một số nhà đầu tư còn chưa quyết liệt, một số nhà thầu năng lực triển khai, thực hiện chưa tốt, khả năng huy động tài chính hạn chế, có tình trạng một số nhà thầu cùng lúc thi công nhiều công trình, trong khi nguồn lực (nhân lực, thiết bị, tài chính) còn hạn chế.
Đối với dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành, tiến độ triển khai và giải ngân dự án đều chậm, vướng mắc trong việc xác định giá đất đền bù, xác định đối tượng được nhận hỗ trợ chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm, hỗ trợ ổn định đời sống sản xuất, một số dự án thành phần về xây dựng các công trình trụ sở cơ quan quản lý nhà nước chưa được bố trí vốn, công trình hạ tầng xã hội khu tái định cư chậm hoàn thành...
(6) Kinh tế phục hồi song cộng đồng doanh nghiệp vẫn đối mặt với nhiều khó khăn, công nghiệp hỗ trợ, mức độ liên kết doanh nghiệp nội ngành, liên ngành và liên kết giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Trong 9 tháng năm 2022 bình quân mỗi tháng có 12,5 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, cao hơn bình quân của năm 2020 (8.500 doanh nghiệp/tháng) và năm 2021 (gần 10.000 doanh nghiệp/tháng). Doanh nghiệp đang đối mặt với khó khăn về tài chính như thiếu vốn lưu động; chi phí đầu vào cho sản xuất tăng cao; số lượng và lợi nhuận của đơn hàng xuất khẩu sụt giảm do sự thắt chặt chi tiêu của người dân ở các nền kinh tế lớn như Mỹ, Châu Âu. Các doanh nghiệp còn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin, tiếp cận nguồn vốn và chưa ưu tiên cho các hoạt động đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất, chất lượng, cải thiện năng lực cạnh tranh.
Năng lực sản xuất công nghiệp chậm được cải thiện, nhất là trong các ngành công nghiệp có tính nền tảng, then chốt, dẫn đến tình trạng nhập khẩu lớn máy móc thiết bị, phụ tùng và nguyên vật liệu cho sản xuất các ngành công nghiệp trong nước. Phát triển công nghiệp phụ trợ, mức độ liên kết và hợp tác kinh doanh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành và giữa các ngành còn hạn chế; liên kết giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI còn yếu, chưa thúc đẩy phát triển kỹ năng quản trị, chuyển giao công nghệ, hình thành các chuỗi cung ứng vật tư, nguyên liệu và cụm liên kết ngành. Chưa có sự tham gia mạnh của các doanh nghiệp trong nước vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu. Đề nghị phân tích, làm rõ nguyên nhân và đề xuất, giải pháp cụ thể.
(7) Tình hình lạm phát được kiểm soát, song trong thời gian từ đầu năm đến giữa năm, giá xăng dầu trong nước liên tục tăng lên mức kỷ lục, gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp và đời sống người dân. Có ý kiến cho rằng đà tăng lạm phát của Việt Nam có độ trễ so với thế giới do Việt Nam mở cửa chậm hơn và phản ứng chính sách trễ hơn, do đó, lạm phát dự báo sẽ có xu hướng tiếp tục tăng cao và có thể đạt đỉnh vào nửa đầu năm và sau đó giảm dần về cuối năm. Lạm phát thời gian tới sẽ chịu áp lực tăng từ nhiều yếu tố, trong đó có sự phục hồi của cầu tiêu dùng, giải ngân đầu tư công; áp lực từ tỷ giá; việc triển khai mạnh hơn các chính sách trong Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội cũng như tác động của điều chỉnh giá các dịch vụ công theo lộ trình.
Có ý kiến cho rằng việc tăng giá xăng dầu trong năm qua có nguyên nhân quan trọng từ thiếu hụt nguồn cung trong nước; tỷ lệ chiết khấu không phù hợp, giá mua cao hơn giá bán khiến nhiều doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu thua lỗ, dẫn tới tình trạng nhiều cửa hàng xăng dầu phải thường xuyên đóng cửa hoặc khống chế lượng xăng dầu bán cho khách hàng. Đề nghị làm rõ thực trạng cung cấp xăng dầu; phân tích nguyên nhân cả khách quan lẫn chủ quan trong công tác điều hành giá xăng dầu để rút ra bài học kinh nghiệm và có giải pháp ứng phó kịp thời, phù hợp khi giá xăng dầu thế giới nhiều khả năng tiếp tục có những diễn biến bất lợi trong tương lai.
Ngoài ra, cũng có ý kiến đề nghị làm rõ các tồn tại trong công tác chỉ đạo điều hành và kiểm soát giá các mặt hàng thiết yếu; khi giá xăng dầu giảm, giá cả nhiều mặt hàng vẫn neo cao, đặc biệt là các mặt hàng đầu vào cho sản xuất nông nghiệp, lương thực, thực phẩm… ảnh hưởng lớn đến đời sống người dân.
(8) Việc xử lý các ngân hàng thương mại yếu kém, các dự án, doanh nghiệp kém hiệu quả, thua lỗ tiếp tục được triển khai theo các Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho giai đoạn 2021-2025 nhưng mới chỉ đạt kết quả bước đầu, chưa có chuyển biến thực chất trên thực tế; đề nghị báo cáo cụ thể tiến độ và kết quả của việc thực hiện mục tiêu này, nhất là việc thực hiện mục tiêu “Phấn đấu xử lý ít nhất 2 ngân hàng thương mại yếu kém và 5 dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả, thua lỗ” nêu tại Nghị quyết số 32/2021/QH15 của Quốc hội.
(9) Công tác quy hoạch tuy đã được đẩy nhanh ngay sau khi Quốc hội tiến hành giám sát và ban hành Nghị quyết giám sát tại Kỳ họp thứ 3, nhưng kết quả lập các quy hoạch thời kỳ 2021-2030 còn rất khiêm tốn, không đạt được các mục tiêu, yêu cầu tại Nghị quyết số 61/2022/QH15 của Quốc hội. Cho đến nay, Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch không gian biển quốc gia vẫn chưa trình được Quốc hội xem xét, phê duyệt. Việc triển khai quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất theo Nghị quyết số 39/2021/QH15 của Quốc hội còn có phần lúng túng, vướng mắc do Luật Quy hoạch không quy định lập quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh. Một số địa phương có điều kiện thu hút đầu tư, đón dòng dịch chuyển vốn đầu tư (Hải Dương, Bình Phước, Phú Thọ, Tiền Giang…) phản ánh việc phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất cho khu, cụm công nghiệp còn chưa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Do đó, đề nghị phân tích rõ hơn nguyên nhân của tình trạng trên và có giải pháp khắc phục.
Quy hoạch điện VIII là quy hoạch ngành quốc gia rất quan trọng, bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, cung ứng đủ điện phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và đời sống Nhân dân. Tuy nhiên, tiến độ lập quy hoạch điện VIII vẫn rất chậm so với yêu cầu dẫn đến chưa triển khai được các dự án phát triển điện năng, ảnh hưởng đến thực hiện các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025. Đề nghị báo cáo tình hình, làm rõ nguyên nhân việc chậm tiến độ. Ngoài ra, đề nghị có báo cáo rõ hơn về tình hình triển khai cam kết quốc tế về biến đổi khí hậu tại Hội nghị COP 26 gắn với việc rà soát, điều chỉnh, phê duyệt các quy hoạch phát triển, đặc biệt là Quy hoạch điện VIII; việc bảo đảm tiến độ quy hoạch, xây dựng các công trình nguồn điện, lưới điện trọng điểm, đặc biệt là các công trình phục vụ chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải carbon.
(10) Thị trường chứng khoán có tốc độ tăng trưởng nhanh và chia sẻ vai trò huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế với thị trường tiền tệ song có nhiều biến động và tiềm ẩn rủi ro. Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp ngày càng được mở rộng nhưng có giai đoạn tăng nóng; cơ cấu thị trường còn thiếu cân đối; chất lượng phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ chưa cao; sử dụng vốn huy động qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ sai mục đích, thiếu minh bạch.
Các doanh nghiệp bất động sản có tỷ lệ đòn bẩy tài chính cao, tình hình tài chính kém lành mạnh có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán các khoản tín dụng hoặc nợ trái phiếu đến hạn. Vừa qua vụ việc xảy ra tại Tập đoàn Tân Hoàng Minh, Công ty Cổ phần Tập đoàn Đầu tư An Đông và các tổ chức, đơn vị có liên quan cùng với những vụ việc khác liên quan đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường chứng khoán xảy ra trong năm đã và đang gây ra nhiều hệ lụy đối với việc phát triển bền vững thị trường vốn, đối với xã hội, gây mất niềm tin của người dân và nhà đầu tư.
Có ý kiến đề nghị cần làm rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời đề nghị có đánh giá thận trọng, chính xác về mức độ ảnh hưởng để có giải pháp phù hợp, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh, bền vững của thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Thị trường bất động sản có dấu hiệu tăng nóng trong những tháng đầu năm 2022, có tình trạng “đẩy giá” gây sốt ảo bất động sản. Rủi ro tác động liên thông giữa thị trường bất động sản với thị trường vốn và hệ thống các tổ chức tín dụng gia tăng.
Có ý kiến cho rằng việc điều hành, quản lý nhà nước đối với các thị trường này còn “chuyển trạng thái đột ngột”, đã có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường và niềm tin của nhà đầu tư; đề nghị tiếp tục nhận diện những rủi ro, có các giải pháp cụ thể để vừa bảo đảm an toàn, vừa thúc đẩy sự phát triển của các thị trường, phục vụ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
(11) Việc giữ ổn định lãi suất và tỷ giá gặp khó khăn, hệ thống ngân hàng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về nợ xấu. Có ý kiến đề nghị đánh giá kỹ hơn tác động của việc neo tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD trong một thời gian khá dài khi nhiều đồng tiền mất giá mạnh so với đồng USD, nhất là khả năng cạnh tranh xuất khẩu của hàng hóa Việt Nam so với các nước khác. Bên cạnh đó, cần đánh giá kỹ nguyên nhân của nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu nội bảng đang có xu hướng gia tăng; đến cuối tháng 7/2022, tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,7%; tỷ lệ nợ xấu, nợ bán cho VAMC chưa xử lý và các khoản tiềm ẩn trở thành nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng là 5,41% (cuối năm 2021 là 6,3%). Đề nghị báo cáo làm rõ tác động của việc dừng chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do dịch Covid-19 theo Thông tư số 01/2020/TT-NHNN (và các văn bản sửa đổi, bổ sung) đến nợ xấu tiềm ẩn trong thời gian tới cũng như tới các khách hàng vẫn chưa khắc phục được khó khăn do dịch Covid-19.
(12) Đề nghị bổ sung đánh giá sâu hơn thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động trên thị trường còn chậm về cả ngành nghề, địa bàn, không theo kịp chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tình trạng thiếu hụt lao động cục bộ, tạm thời trong một số ngành, lĩnh vực; doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, thiếu hụt cả số lượng và kỹ năng của người lao động; hiện tượng chuyển dịch lao động từ khu vực công sang khu vực khác đặc biệt là sau hơn 2 năm phòng, chống dịch Covid-19 như nhân lực trong ngành y tế, giáo dục; hiện tượng một bộ phận lao động chưa sẵn sàng quay trở lại tham gia vào thị trường lao động; chất lượng lao động còn hạn chế, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức lớn, nếu tính chung bao gồm cả lao động làm việc trong hộ nông nghiệp của Quý II năm 2022 là 66,1%.
Ngoài ra, có ý kiến cho rằng tiền lương và chế độ đãi ngộ đối với công chức, viên chức còn nhiều hạn chế. Tình trạng viên chức trong ngành y tế thôi việc hoặc bỏ việc làm ảnh hưởng đến hoạt động chăm sóc y tế, khám chữa bệnh khu vực công và gây lo ngại cho dư luận xã hội ngay sau thời gian dài chống dịch Covid-19; đề nghị có đánh giá kỹ lưỡng về nguyên nhân công chức, viên chức không chỉ của ngành giáo dục, y tế bỏ việc hoặc thôi việc để làm căn cứ đưa ra giải pháp phù hợp.
Hoạt động đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài có dấu hiệu phục hồi (8 tháng đầu năm 2022 số lao động đi làm việc ở nước ngoài đạt 81 nghìn lao động, bằng 90% kế hoạch năm 2022, năm 2020 và năm 2021 tương ứng là 78.641 người và 45.058 người). Dự kiến hết năm 2022 số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài có thể đạt 105 nghìn, đạt 116,6% kế hoạch. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị báo cáo rõ hơn về những hạn chế, bất cập của công tác này, nhất là tình trạng lừa đảo, môi giới lao động bất hợp pháp ra nước ngoài, gần đây nhất là vụ việc nhiều công dân Việt Nam bị lừa đảo, môi giới lao động bất hợp pháp tại Campuchia.
(13) Lĩnh vực văn hóa-giáo dục còn hạn chế, bất cập; phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở nhiều nơi vẫn còn hình thức; phát triển văn hoá chưa tương xứng với phát triển kinh tế, chưa trở thành một động lực để đất nước phát triển bền vững. Nguồn lực đầu tư cho bảo tồn di sản văn hóa còn hạn chế dẫn đến tình trạng nhiều di tích bị xuống cấp, hư hỏng nặng; nhiều di sản văn hóa phi vật thể ít được chăm lo, bảo tồn. Việc xây dựng, nâng cao hiệu quả thiết chế văn hóa ở các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị mới còn hạn chế.
Tình trạng xuống cấp về đạo đức, lối sống ở một bộ phận người dân đã bước đầu được ngăn chặn, tuy nhiên chưa được đẩy lùi. Vẫn còn tình trạng lợi dụng tự do tín ngưỡng, sinh hoạt văn hóa “tâm linh” để trục lợi, vi phạm pháp luật. Hoạt động thể thao vẫn còn một số vấn đề đặt ra sau thành công của SEA Games 31. Còn tình trạng một số cơ quan báo chí, văn phòng đại diện, phóng viên thường trú hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, lợi dụng danh nghĩa báo chí để “sách nhiễu” cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp.
Việc thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được khắc phục triệt để. Một số địa phương còn bị động trong nguồn tuyển giáo viên; đời sống của một bộ phận giáo viên còn gặp nhiều khó khăn. Tại một số địa phương, cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy học chưa đầy đủ, đồng bộ. Chất lượng một số sách giáo khoa theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 còn có mặt hạn chế, còn một số điểm cần rà soát kỹ hơn. Công tác phát hành sách ở nhiều địa phương còn bất cập, gây khó khăn cho phụ huynh, học sinh.
Có ý kiến cho rằng còn hiện tượng lạm thu một số quỹ phụ huynh học sinh đầu năm học tạo gánh nặng lớn đối với gia đình khó khăn. Việc thực thi chính sách, pháp luật về giáo dục đại học nói chung, về tự chủ đại học nói riêng còn hạn chế; tổ chức bộ máy, đội ngũ lãnh đạo của một số cơ sở giáo dục đại học chưa được kiện toàn kịp thời . Nhiều học sinh, phụ huynh học sinh còn lúng túng trong việc đăng ký xét tuyển theo quy định. Có ý kiến đề nghị báo cáo về chất lượng giáo dục tiểu học, nhất là đối với học sinh lớp 1, lớp 2 sau 2 năm bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 gắn liền với việc theo dõi và đánh giá sức khỏe của lứa tuổi này.
Việc triển khai Chiến lược phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và xây dựng các Đề án thực hiện Chiến lược nhằm huy động thanh niên tham gia phát triển kinh tế- xã hội và bảo vệ Tổ quốc còn chậm so với tiến độ. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn xảy ra những vụ bạo hành, xâm hại trẻ em, đuối nước, tai nạn gây tử vong trẻ em. Tình trạng trẻ em gặp các vấn đề về sức khỏe tâm thần có nguy cơ gia tăng.
(14) Trong số 16 chỉ tiêu cụ thể của ngành y tế được giao theo Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ, có 9/16 chỉ tiêu ước đạt kế hoạch , 7/16 chỉ tiêu ước thực hiện không đạt kế hoạch. Tình trạng thiếu thuốc, vật tư, thiết bị y tế xảy ra tại bệnh viện công ở nhiều địa phương, ảnh hưởng rất lớn tới công tác khám bệnh, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Theo Báo cáo của Bộ Y tế, 28/34 địa phương, 12/21 bệnh viện tuyến trung ương báo cáo có tình trạng thiếu thuốc; 26/34 địa phương và 15/21 bệnh viện tuyến trung ương báo cáo có tình trạng thiếu vật tư tiêu hao, hóa chất; 14/34 địa phương và 8/21 bệnh viện tuyến trung ương báo cáo có tình trạng thiếu trang thiết bị y tế . Năm 2023, nguy cơ thiếu thuốc khi khoảng 14 nghìn thuốc sẽ hết hiệu lực đăng ký lưu hành, tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng lớn tới công tác khám bệnh, chữa bệnh nói chung. Một số nguyên nhân được chỉ ra, chủ yếu là do: (i) Hành lang pháp lý về mua sắm, đấu thầu thuốc, trang thiết bị y tế còn chưa hoàn thiện, gây nhiều cách hiểu khác nhau khi triển khai thực hiện; (ii) Việc xử lý vi phạm của một bộ phận công chức, viên chức y tế đã tạo ra tâm lý e ngại, sợ sai, sợ chịu trách nhiệm, không dám mua sắm của các địa phương, đơn vị; (iii) Khó khăn trong việc giải quyết hồ sơ đăng ký lưu hành thuốc theo quy định tại Luật Dược năm 2016 .
Về công tác phòng, chống dịch Covid-19, một số quốc gia đã coi Covid-19 là bệnh đặc hữu (Thái Lan), do đó, đề nghị có dự báo và phân tích, coi đó là những kinh nghiệm tốt cho Việt Nam trong thời gian tới khi nghiên cứu việc chuyển từ nhóm A sang nhóm B đối với các bệnh truyền nhiễm, trong đó có bệnh Covid-19. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị nghiên cứu, phân tích thêm về lý do Trung Quốc tiếp tục duy trì chính sách Zero Covid-19, sử dụng biện pháp phòng, chống dịch nghiêm ngặt.
(15) Việc triển khai thực hiện 3 Chương trình mục tiêu quốc gia còn rất chậm. Trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Trung ương, các địa phương mới cơ bản hoàn thành việc xây dựng, ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân quy định tiêu chí, nguyên tắc, định mức phân bổ vốn ngân sách trung ương. Ngoài ra, một số địa phương được phân bổ nguồn lực từ 2 hoặc 3 Chương trình mục tiêu quốc gia từ nguồn vốn đầu tư phát triển lớn nhưng chưa xây dựng, trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh ban hành cơ chế lồng ghép nguồn vốn giữa các Chương trình, giữa các Chương trình với dự án khác trên địa bàn. Việc chậm ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn và chậm phân bổ vốn cho các Chương trình đã tác động đến việc thực hiện các mục tiêu tăng trưởng, giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, ảnh hưởng lớn đến mục tiêu xây dựng nông thôn mới, hỗ trợ người dân, người nghèo, người yếu thế, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
(16) Công tác an sinh xã hội cần được quan tâm hơn. Đề nghị bổ sung đánh giá việc chăm sóc sức khỏe Nhân dân, nhất là những tổn thương do dịch Covid-19 gây ra cũng như các khó khăn, vướng mắc trong xây dựng nhà ở xã hội, nhà ở cho công nhân (thiếu quỹ đất; tiếp cận vốn khó khăn, nhất là với các nguồn vốn ưu đãi; quy trình thủ tục rườm rà, kéo dài…). Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp còn thấp, có tình trạng tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đang bị chững lại và giảm đột ngột trong năm 2022, ước tính đến 30/9/2022, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế chỉ đạt 87,42% dân số, để hoàn thành được chỉ tiêu về bảo hiểm y tế, cần một sự quyết tâm rất lớn từ Chính phủ.
Đây là nhiệm vụ và là vấn đề cấp bách cần quan tâm vì sau hơn 2 năm diễn ra đại dịch Covid-19, nhiều địa phương thực hiện giãn cách xã hội, nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của người dân tăng rất cao. Việc không có bảo hiểm y tế sẽ khiến nhiều người dân, nhất là người dân tộc thiểu số, lao động phi chính thức, nông dân gặp nhiều khó khăn trong việc chăm sóc sức khỏe, ảnh hưởng đến thu nhập của hộ gia đình và bảo đảm an sinh xã hội cho người dân. Ngoài ra, đề nghị báo cáo rõ hơn về tình trạng rút bảo hiểm xã hội một lần; tình trạng không chấp hành hoặc chấp hành chưa đầy đủ pháp luật về bảo hiểm xã hội tiếp tục không có nhiều cải thiện, nhất là với nhóm doanh nghiệp ngoài quốc doanh; tình trạng chậm thanh toán bổ sung chi phí khám, chữa bệnh, bảo hiểm y tế từ năm 2018 đến nay chưa được giải quyết kịp thời.
Tình hình tội phạm và tệ nạn về ma túy có dấu hiệu phức tạp trở lại sau dịch Covid-19, nhiều đường dây ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam qua tuyến đường bộ, đường hàng không được phát hiện. Số người nghiện ma túy vẫn ở mức cao, cả nước có 217.059 người nghiện ma túy và người bị quản lý sau cai nghiện ma túy (tăng 11.241 người nghiện so với cuối năm 2021), trong đó số người nghiện ở ngoài cộng đồng là 104.815 người (chiếm 55,2%), có 48.454 người sử dụng trái phép chất ma túy. Đây là nguồn cầu tiêu thụ ma túy rất lớn, làm gia tăng nguy cơ tiềm ẩn gây mất an ninh trật tự xã hội. Đáng lưu ý, tỷ lệ người nghiện độ tuổi dưới 30 tuổi chiếm 39,4% và có xu hướng ngày càng trẻ hóa, ngày càng gia tăng người sử dụng các loại ma túy tổng hợp (chiếm trên 50%) tập trung vào thanh thiếu niên, khó kiểm soát, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh tội phạm. Có ý kiến cho rằng việc quản lý và kiểm soát tiền chất ma túy gặp khó khăn do chưa kiểm soát được đầu ra cuối cùng của các loại tiền chất, dẫn đến nguy cơ các đối tượng lợi dụng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy .
Tệ nạn mại dâm với nhiều hình thức tinh vi, biến tướng , hoạt động mại dâm có sử dụng chất kích thích, ma túy tổng hợp… tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh tội phạm vi phạm pháp luật khác và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống gia đình, xâm phạm trật tự an toàn xã hội.
(17) Công tác xây dựng hoàn thiện thể chế còn hạn chế, tính ổn định và khả năng dự báo chưa cao; một số quy định còn chưa đồng bộ, thống nhất; một số quy định còn sơ hở, chồng chéo, có khả năng bị lợi dụng, làm nảy sinh tham nhũng nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung, nhất là trên các lĩnh vực: Quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đấu thầu; đầu tư, mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công… So với năm 2021, việc nợ ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh tăng mặc dù số văn bản cần ban hành ít hơn so với cùng kỳ năm trước.
Ngoài ra, đề nghị bổ sung nội dung đánh giá về việc triển khai thực hiện đối với các nghị quyết về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển đối với một số địa phương như Khánh Hòa, Thanh Hóa, Nghệ An, Hải phòng, Thừa Thiên Huế...; đồng thời, nghiên cứu bảo đảm tính kết nối và đồng bộ trong việc đề xuất các cơ chế đặc thù trong quá trình xây dựng các dự án luật có liên quan. Đối với các nội dung thí điểm về chính sách đất đai cũng cần được tổng kết, đánh giá rõ kết quả thực hiện, làm rõ cơ sở chấm dứt thí điểm nếu đưa vào quy định trong dự án Luật Đất đai (sửa đổi) để thực hiện chung.
Công tác tổ chức thực thi pháp luật, hoạt động tư pháp còn một số tồn tại cũng cần báo cáo rõ hơn. Số bản án hành chính đang phải thi hành còn nhiều ; hoạt động của một số tổ chức hành nghề bổ trợ tư pháp (Công chứng, đấu giá tài sản) vẫn còn sai phạm, chưa thực hiện đúng, đủ quy định pháp luật.
Tình hình trật tự, an toàn xã hội tuy được bảo đảm nhưng nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội phạm và vi phạm pháp luật còn nhiều; tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia vẫn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp. Tội phạm về kinh tế, tham nhũng gắn với “lợi ích nhóm” có chiều hướng gia tăng; nhiều vụ án tham nhũng gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, nhất là trong các lĩnh vực y tế, đất đai, đấu thầu, đấu giá, chứng khoán… xảy ra ở cả khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước .
(18) Một số vấn đề khác cũng cần được quan tâm, báo cáo làm rõ như về năng lực cạnh tranh du lịch của Việt Nam, số lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam chưa được như kỳ vọng, khó đạt được mục tiêu đề ra , chính sách thị thực và kết nối hàng không chưa thực sự thuận lợi; các vấn đề về quản lý biên giới, quản lý xuất nhập cảnh, lao động trái phép, lừa đảo đưa người lao động ra nước ngoài bất hợp pháp; công tác phòng, chống cháy nổ cùng với sự tham gia bảo kê của một bộ phận cán bộ ; công tác tư tưởng, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng.
Ngoài ra, một số vấn đề cũng cần được phân tích, đánh giá kỹ liên quan tới phát triển kinh tế số, việc đạt mục tiêu đề ra cho năm 2025 khi tỷ trọng kinh tế số chiếm 20% GDP là rất thách thức, đòi hỏi nhiều quyết tâm, hành động mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa; việc đấu thầu mua sắm tài sản công gây thiệt hại nghiêm trọng nguồn vốn ngân sách nhà nước; kết quả thực hiện các kiến nghị, kết luận thanh tra, kiểm toán nhà nước; việc giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo và giải quyết các kiến nghị của người dân từ cấp cơ sở còn chưa đạt yêu cầu; những chuyển biến trong việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, đặc biệt là trong sắp xếp hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập và những giải pháp đã triển khai để bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm; việc đơn giản hóa thủ tục hành chính của công dân, tổ chức khi giải quyết công việc tại các cơ quan hành chính nhà nước, gắn với việc vận hành, kết nối các Cơ sở dữ liệu điện tử chuyên ngành, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, nhất là trong điều kiện Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú sẽ không còn giá trị từ ngày 1/1/2023…; gây phiền hà khi người dân xin xác nhận cư trú khi bỏ sổ hộ khẩu.
II. Dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023
1. Dự báo tình hình quốc tế và trong nước
Tình hình quốc tế nói chung và kinh tế thế giới nói riêng sẽ còn nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Đà suy giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu trở nên rõ rệt hơn trong khi lạm phát được dự báo vẫn duy trì ở mức cao, tính bất định gia tăng, điều chỉnh chính sách vĩ mô của các nước lớn (Mỹ, Trung Quốc, EU...) đặt ra nhiều thách thức về tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô và lựa chọn chính sách đối với các nước. Xung đột Nga-Ukraine có thể kéo dài và mức độ gia tăng; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn khốc liệt hơn sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến giá hàng hóa thế giới, chi phí vận tải, logistics, chuỗi cung ứng sản xuất, tiêu dùng cũng như tiềm ẩn rủi ro đến ổn định thị trường tài chính, tiền tệ, an ninh lương thực và các vấn đề địa chính trị khu vực, toàn cầu.
Xu hướng gia tăng cạnh tranh chiến lược tiếp tục tác động mạnh mẽ đến tình hình hợp tác và liên kết kinh tế tại các khu vực, bao gồm châu Á-Thái Bình Dương. Việc nhiều nước lớn sẽ đảm nhiệm các vị trí quốc tế quan trọng thời gian tới (Mỹ đăng cai Năm APEC 2023, Nhật Bản làm Chủ tịch G20 năm 2023) và Trung Quốc tích cực thúc đẩy các sáng kiến liên kết, hợp tác và liên kết tại châu Á-Thái Bình Dương nhiều khả năng sẽ có các diễn biến mới, khó lường hơn. Những rủi ro từ thông tin liên quan tới “sức khỏe” của Credit Suisse, một ngân hàng lớn của Thụy Sỹ có thể ảnh hưởng lớn đến thị trường tài chính toàn cầu. Tựu trung lại, các rủi ro tiềm ẩn từ môi trường kinh tế thế giới có thể tác động tiêu cực lên triển vọng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cần được phân tích, đánh giá rõ hơn, trong đó có một số nội dung sau:
Thứ nhất, rủi ro tăng trưởng kinh tế thế giới giảm tốc, nguy cơ suy thoái gia tăng. Các nền kinh tế phát triển đầu tàu và là đối tác thương mại lớn của Việt Nam tiềm ẩn nhiều rủi ro suy thoái do diễn biến khó lường của xung đột Nga-Ukraine, chính sách phòng, chống dịch Covid-19 của Trung Quốc, diễn biến lạm phát và phản ứng chính sách của các nước.
Thứ hai, rủi ro lạm phát kéo dài, tăng cao thời gian qua do nguyên nhân từ cả phía cầu (các gói tài khóa-tiền tệ nới lỏng trong năm 2020-2021) và phía cung (đứt gãy nguồn cung, giá năng lượng tăng cao), do đó nhiều khả năng lạm phát sẽ trở thành rủi ro hiện hữu trong trung hạn.
Thứ ba, rủi ro từ quá trình thắt chặt chính sách tiền tệ được đẩy nhanh và dự báo còn kéo dài tới giữa hoặc cuối năm sau. IMF và một số tổ chức quốc tế cho rằng việc tăng lãi suất tại Mỹ và các nền kinh tế lớn khác có thể góp phần kiềm chế lạm phát, song cũng cảnh báo các biện pháp này có khả năng gây ra đảo chiều dòng vốn và tăng gánh nặng trả nợ đối với nhiều nước đang phát triển.
Ở trong nước, bên cạnh những yếu tố thuận lợi như dịch Covid-19 cơ bản được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm, song các rủi ro vẫn còn hiện hữu khi nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn trong khi khả năng tự chủ của nền kinh tế, năng lực sản xuất trong nước còn hạn chế, qua hơn 2 năm chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, “sức khỏe” của doanh nghiệp bị bào mòn, rủi ro, thách thức tới tăng trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô của nước ta là hiện hữu. Lạm phát có thể tăng nhanh hơn dự báo; giá lương thực, thực phẩm có thể tăng lên.
Năng lực cung ứng vốn cũng như hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp; hệ thống ngân hàng thương mại cũng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về nợ xấu, điều hành tỷ giá dự báo gặp nhiều khó khăn. Sự phục hồi của nền kinh tế cũng có thể gặp trở ngại do tăng trưởng toàn cầu chậm lại, thậm chí có thể xảy ra suy thoái. Các điều kiện tài chính thắt chặt hơn dự kiến sẽ làm tăng chi phí tài chính, dẫn tới có thể làm đảo chiều dòng vốn như đã thấy ở nhiều thị trường mới nổi trong khu vực. Sự thiếu ổn định nhiều hơn trong thương mại toàn cầu và thị trường tài chính cũng có thể tác động đến sự phục hồi, đặc biệt một số ngành có thể khó tiếp cận hàng hóa hơn do chuỗi cung ứng bị gián đoạn thêm…; rủi ro từ biến đổi khí hậu và thời tiết cực đoan.
2. Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu chủ yếu
Ủy ban Kinh tế cơ bản thống nhất với các định hướng lớn, mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu theo Báo cáo của Chính phủ, theo đó kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19 và các dịch bệnh mới phát sinh, không để bị động, bất ngờ. Giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn; đẩy mạnh cơ cấu lại, nâng cao năng lực nội tại, tính tự chủ, khả năng chống chịu và tính thích ứng của nền kinh tế; củng cố, phát triển các động lực tăng trưởng mới trong trung và dài hạn; rà soát, hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật. Quyết liệt và đẩy nhanh tiến độ thực hiện các đột phá chiến lược, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia, các dự án xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, nhất là các dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm quốc gia.
Đối với các chỉ tiêu chủ yếu, Ủy ban Kinh tế đề nghị:
- Bổ sung cơ sở đề xuất chỉ tiêu tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng CPI bình quân năm 2023 là 4,5%; với áp lực lạm phát dự kiến sẽ ở mức cao trong năm 2023, Chính phủ cần lưu ý các thách thức khi thực hiện chỉ tiêu này.
- Báo cáo cụ thể về việc xây dựng dự toán thu ngân sách nhà nước chi tương đương ước thực hiện năm 2022 trong điều kiện dự kiến tăng trưởng 6,5%, lạm phát 4%, cụ thể: Tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước khoảng 15,7%, thấp hơn mục tiêu 16% GDP bình quân của giai đoạn 5 năm 2021-2025; tỷ trọng thu nội địa 82,3%, thấp hơn mục tiêu khoảng 85-86%. Đề nghị cân nhắc xây dựng dự toán thu ngân sách nhà nước tích cực hơn để tăng chi đầu tư phát triển và giảm bớt bội chi.
- Nghiên cứu, xem xét tính khả thi của chỉ tiêu 12 bác sỹ trên 10.000 dân, trong khi năm 2022 số bác sỹ trên 10.000 dân là 10 bác sỹ, đồng nghĩa với việc năm 2023 phải tăng thêm 20 nghìn bác sỹ. Tương tự, với chỉ tiêu số giường bệnh trên 10.000 dân, cần tăng 15 nghìn giường bệnh vào năm 2023.
- Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 yêu cầu “Đưa các chỉ tiêu về phát triển nhà ở, trong đó có chỉ tiêu bắt buộc phát triển nhà ở xã hội vào hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội 5 năm và hằng năm của cả nước và từng tỉnh, thành phố”. Do đó, đề nghị nghiên cứu, bổ sung chỉ tiêu phát triển nhà ở xã hội vào hệ thống chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2023 cũng như giai đoạn 2021-2025.
3. Một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Ủy ban Kinh tế cơ bản đồng tình với các nhiệm vụ, giải pháp của Chính phủ và đề nghị tiếp tục thực hiện, cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong Nghị quyết số 16/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, các nghị quyết chuyên đề khác của Quốc hội và các giải pháp điều hành mà Chính phủ đề ra cho những tháng cuối năm 2022 và cả năm 2023. Ưu tiên tập trung nguồn lực hỗ trợ, giải quyết hậu quả thiên tai, bão lũ, nhất là với các hộ nghèo hoặc hộ gặp hoàn cảnh khó khăn; bằng mọi giải pháp để chăm lo cho người nghèo đón Tết Nguyên đán năm 2023. Đồng thời, bám sát tình hình thực tiễn, nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, chủ động xây dựng các kịch bản, chuẩn bị cho mọi tình huống có thể xảy ra, không để lỡ nhịp hồi phục sau dịch bệnh.
Để tránh dàn trải, tập trung vào một số vấn đề chính, cốt lõi thực hiện trong năm 2023, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ, các cấp, các ngành cần tập trung khắc phục những tồn tại, bất cập, vướng mắc về kinh tế-xã hội như đã phân tích trong báo cáo này; đồng thời bổ sung, nhấn mạnh một số nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây:
(1) Cần kiên định, kiên trì thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng cường năng lực thích ứng, chống chịu của hệ thống tài chính, ngân hàng. Theo dõi sát diễn biến tình hình kinh tế thế giới, diễn biến giá cả, lạm phát trên thế giới, phản ứng chính sách của các nền kinh tế lớn, các đối tác thương mại, đầu tư chính, đánh giá nguyên nhân và ảnh hưởng của lạm phát để chủ động có giải pháp điều hành phù hợp; kịp thời cảnh báo các nguy cơ ảnh hưởng đến lạm phát trong nước kể cả từ phía cầu và chi phí đẩy, nhất là tác động do giá xăng dầu và giá nguyên vật liệu sản xuất tăng cao trên thế giới. Xây dựng kịch bản ứng phó với nguy cơ đình trệ và lạm phát.
Chính sách tiền tệ cần phải linh hoạt hơn và chú trọng hơn đến việc hướng dòng vốn vào lĩnh vực ưu tiên nền kinh tế, đồng thời thận trọng với rủi ro lạm phát; việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ hiện hành như lãi suất, tăng trưởng tín dụng và các biện pháp điều hành thị trường ngoại hối phải nhất quán để kiểm soát lạm phát, hạn chế rủi ro tài chính.
Trong bối cảnh hiện nay, cần điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý, chú trọng đến cơ cấu và chất lượng tín dụng, hướng dòng vốn vào các lĩnh vực ưu tiên của nền kinh tế. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng cơ cấu tín dụng hợp lý trong năm 2023 và có các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy triển khai có hiệu quả gói hỗ trợ lãi suất 2%.
Duy trì ổn định, an toàn của thị trường tài chính, tiền tệ, nhất là các lĩnh vực đang tiềm ẩn nhiều rủi ro như thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, vàng. Lưu ý rủi ro liên thông giữa thị trường bất động sản với thị trường vốn và hệ thống các tổ chức tín dụng. Thận trọng rủi ro nợ xấu khi đã chấm dứt chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ. Đẩy mạnh việc xử lý nợ xấu, cơ cấu lại hệ thống tài chính, ngân hàng, xử lý thực chất và hiệu quả các ngân hàng yếu kém, chú trọng tăng cường tiềm lực cho hệ thống các ngân hàng thương mại bằng các giải pháp tăng vốn, nhất là các ngân hàng thương mại nhà nước. Khắc phục, xử lý nghiêm tình trạng sở hữu chéo. Khuyến khích các tổ chức tín dụng tăng cường doanh thu các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng có giá trị gia tăng cao; tiết giảm chi phí, ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.
(2) Đối với chính sách tài khóa, nghiên cứu mở rộng hơn không gian chính sách tài khóa nhưng cần gắn với hiệu quả của đầu tư công để tránh gây rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô. Chính sách tài khóa phải phối hợp hài hòa, chặt chẽ với chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác với liều lượng phù hợp để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Bố trí nguồn lực, điều chỉnh tăng lương cơ sở, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng. Quản lý chặt chẽ bội chi ngân sách Nhà nước, kiểm soát nợ công.
Tiếp tục theo dõi sát tình hình giá xăng dầu thế giới và trong nước, từ đó đề xuất phương án kịp thời, phù hợp về thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng đối với xăng dầu, nghiên cứu giải pháp miễn giảm phí, lệ phí trong lĩnh vực giao thông vận tải hỗ trợ doanh nghiệp trong bối cảnh giá xăng dầu cao.
Theo Ủy ban Kinh tế, dư địa cho các chính sách tài khóa vẫn còn, cần tiếp tục duy trì các chính sách hỗ trợ nhưng phải bảo đảm có hướng đích và có mục tiêu; nghiên cứu tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp gia hạn thuế mà không thực hiện miễn giảm thuế, nhất là với thuế thu nhập doanh nghiệp, không lựa chọn giảm thuế theo tiêu chí doanh thu như năm 2020, năm 2021; rà soát cụ thể lại các chính sách quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp.
(3) Đối với các chính sách an sinh xã hội, cần chú trọng các giải pháp chính sách đối với nhóm lao động thuộc khu vực phi chính thức; đơn giản hóa và cụ thể hóa các tiêu chí xác định đối tượng được hưởng trợ cấp để tăng cường khả năng tiếp cận các chính sách cũng như tạo hiệu ứng lan tỏa trong việc triển khai các chính sách an sinh xã hội.
Đẩy mạnh hơn nữa xây dựng và thực thi nhóm chính sách hỗ trợ phát triển thị trường lao động việc làm hiện đại, liên thông, kết nối đi kèm với các giải pháp nhằm chính thức hoá lao động phi chính thức, tăng độ bao phủ an sinh xã hội. Cùng với đó là việc triển khai đồng bộ các chính sách đào tạo nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cụ thể như chuyển đổi đa dạng, hiệu quả phương thức đào tạo nghề, bảo đảm các tiêu chí về quy mô và cơ cấu ngành nghề trên thị trường lao động, xây dựng mô hình đào tạo nghề gắn kết chặt chẽ hơn với nhu cầu của doanh nghiệp, đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu nghề nghiệp trong tương lai. Đối với hiện tượng một bộ phận lao động chưa quay lại thị trường lao động, cần thu thập dữ liệu để đánh giá và có giải pháp phù hợp. Tập trung giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân lao động, ổn định lực lượng lao động trong các khu công nghiệp, khu kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Xây dựng cơ chế, chính sách cải thiện môi trường làm việc, khắc phục sớm tình trạng công chức, viên chức xin thôi việc.
(4) Tiếp tục theo dõi chặt chẽ diễn biến dịch bệnh trên thế giới để có kịch bản, phương án ứng phó kịp thời, tránh trường hợp bị động, bất ngờ. Giải quyết vướng mắc trong đấu thầu thuốc, vật tư y tế nhằm chấm dứt ngay tình trạng thiếu trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế; đồng thời có giải pháp thúc đẩy phát triển công nghiệp dược và sản xuất sản thuốc trong nước. Thực hiện các giải pháp mạnh mẽ hơn về nâng cao năng lực của hệ thống y tế cũng như nguồn lực nhằm đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe Nhân dân, khắc phục tình trạng thiếu bác sỹ tại các bệnh viện công. Nghiên cứu lộ trình phù hợp, tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế, đồng thời điều chỉnh mức đóng bảo hiểm y tế phù hợp; có giải pháp khắc phục tình trạng bệnh viện thực hiện cơ chế tự chủ nhưng thu không đủ bù chi. Thực hiện các giải pháp để tiếp tục phục hồi du lịch, đa dạng thị trường khách du lịch, tập trung thu hút khách du lịch quốc tế.
(5) Coi trọng công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế để khắc phục những khiếm khuyết của các thị trường, qua đó khơi thông, tạo điều kiện cho các thị trường phát triển một cách lành mạnh và bền vững. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các luật đã ban hành; chuẩn bị sớm, bảo đảm tiến độ và chất lượng các dự án luật đã đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023. Giảm thiểu tối đa tình trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Xây dựng và triển khai quyết liệt các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Tăng cường kết nối khu vực FDI với khu vực kinh tế trong nước; ưu tiên thu hút các dự án FDI công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan tỏa, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.
(6) Tăng cường cơ cấu lại nền kinh tế theo các nhiệm vụ trọng tâm đề ra tại Nghị quyết số 31/2021/QH15. Xây dựng giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt hơn để vừa khắc phục những hạn chế, yếu kém của một số ngành, lĩnh vực, vừa thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, đẩy nhanh tiến độ của các dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm quốc gia. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về giá vật liệu xây dựng, có giải pháp, chế tài xử lý kịp thời, nghiêm minh và phù hợp để chống độc quyền, đầu cơ, tùy tiện nâng giá vật liệu xây dựng; khẩn trương hoàn thiện các định mức kinh tế, kỹ thuật, thẩm định giá và chứng thư thẩm định giá, điều chỉnh định mức giá cho sát thị trường; xây dựng và công bố các chỉ số giá xây dựng hằng tháng bảo đảm phản ánh mức độ biến động của giá nhiên liệu, vật liệu xây dựng thực tế tại các công trình xây dựng trên địa bàn, phù hợp với giá thị trường.
Thực hiện đồng bộ, tháo gỡ vướng mắc, cải cách thủ tục để đẩy nhanh các Chương trình mục tiêu quốc gia. Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính chỉ đạo các Bộ, ngành khẩn trương, nghiêm túc hoàn thành ban hành các văn bản về hướng dẫn, quy định tổ chức thực hiện một số Dự án, Tiểu dự án, các nội dung chính sách chưa có văn bản hướng dẫn. Chỉ đạo, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương xây dựng giải pháp chi tiết, cụ thể thực hiện công tác giải ngân bảo đảm theo kế hoạch đề ra; có cơ chế lồng ghép chính sách, tích hợp nguồn lực giữa các Chương trình mục tiêu quốc gia, đảm bảo hiệu quả nguồn lực đầu tư.
(7) Thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của Nghị quyết số 61/2022/QH15 của Quốc hội về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch và một số giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ lập và nâng cao chất lượng quy hoạch thời kỳ 2021 – 2030. Sớm hoàn thành trình Quốc hội Quy hoạch tổng thể quốc gia, Quy hoạch không gian biển quốc gia; ban hành kịp thời các quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; ban hành quy hoạch điện VIII để có căn cứ triển khai các dự án điện, tạo năng lực sản xuất trong trung và dài hạn; sớm ban hành giá mua điện mới đối với điện gió. Nghiên cứu cơ chế phân cấp cho các địa phương mạnh hơn nữa về lĩnh vực đầu tư. Rà soát để giải quyết các vướng mắc trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở các địa phương
(8) Đẩy nhanh thực hiện 3 đột phá chiến lược, 6 nhiệm vụ trọng tâm theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; các giải pháp tại Nghị quyết số 50-NQ/TW của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 để thực chất tạo động lực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng nội lực, bằng những điểm mạnh vượt trội so với các quốc gia khác.
(9) Triển khai quyết liệt, hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông 2018, quy hoạch hệ thống giáo dục đại học và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, chất lượng giáo dục nghề nghiệp. Nhanh chóng hoàn thiện, ban hành Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2022-2030 và tầm nhìn đến 2045; xây dựng và tổ chức triển khai Khung chiến lược phát triển giáo dục đại học, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đẩy mạnh thu hút các nguồn lực xã hội, thực hiện lồng ghép với các Chương trình mục tiêu quốc gia để tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học bảo đảm thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
(10) Tập trung triển khai hiệu quả Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030. Nghiên cứu ban hành cơ chế, chính sách để huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho văn hóa; đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa. Ban hành và thực hiện có hiệu quả Chiến lược phát triển thể dục, thể thao đến năm 2030. Tăng cường và đổi mới công tác quản lý báo chí phù hợp với tình hình thực tế, chú trọng đến những giải pháp hỗ trợ báo chí phát triển đúng hướng.
Tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận trong xã hội; chỉ đạo, đôn đốc việc triển khai thực hiện Luật Thanh niên và các văn bản hướng dẫn Luật Thanh niên; xây dựng đồng bộ 8 chính sách đã được quy định tại Luật Thanh niên . Tăng cường, thực hiện hiệu quả hơn công tác phòng, chống xâm hại trẻ em; phòng, chống tai nạn thương tích trẻ em; chăm sóc sức khỏe tâm thần cho trẻ em; bảo vệ trẻ em trên môi trường mạng; xây dựng môi trường an toàn, lành mạnh cho trẻ em, phát triển toàn diện trẻ em.
(11) Tiếp tục tìm kiếm cơ hội phát triển mới thông qua thúc đẩy các động lực tăng trưởng theo xu hướng phát triển kinh tế số, chuyển đổi số, tăng cường môi trường thuận lợi và bảo đảm an toàn trong không gian mạng, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải khí các-bon,… Đồng thời, cần đánh giá tổng thể về lợi ích đạt được và chi phí mà nền kinh tế phải bỏ ra để xây dựng lộ trình thực hiện cam kết COP26 phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển của Việt Nam. Tăng tốc và đẩy mạnh quá trình số hóa và điện tử hóa hoạt động quản lý Nhà nước cũng như cung cấp dịch vụ công cho doanh nghiệp và người dân thông qua xây dựng hệ thống dữ liệu lớn trong quản lý nhà nước, tích hợp các loại giấy tờ hành chính trong cùng một hệ thống đồng bộ, thúc đẩy cung ứng dịch vụ công phát triển theo hướng Chính phủ phục vụ. Xây dựng kế hoạch, thực hiện tốt vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023-2025.
Trên đây là Báo cáo thẩm tra đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022; dự kiến Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2023. Ủy ban Kinh tế xin thay mặt Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trân trọng báo cáo Quốc hội xem xét, cho ý kiến và tập trung đánh giá về các nội dung trên trong quá trình thảo luận tại Tổ và Hội trường tại Kỳ họp thứ 4.