Chèo chống trong cơ chế thị trường
Trao đổi ý kiến về làng nghề truyền thống tại địa phương, đồng chí Lâm Văn Mẫn, Ủy viên dự khuyết T.Ư Ðảng, Bí thư Huyện ủy Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng cho biết: 'Khó khăn muôn trùng, nhất là đầu ra cho sản phẩm!'. Theo đồng chí thì nghề truyền thống của bà con Khmer tại địa phương chủ yếu là tận dụng nguyên liệu tại chỗ như tre, trúc để đan cần xé, mây bồ phục vụ cho nghề nông, hiệu quả thấp, chưa có những sản phẩm tinh xảo để bán cho khách du lịch. Một vấn đề đặt ra là giữa những người thợ vẫn chưa quen tập hợp lại, sản xuất theo đơn vị kinh tế hộ là chủ yếu, kỹ thuật lạc hậu, làm ăn manh mún. Chính quyền huyện cũng đã nghĩ tới việc tìm kiếm nghệ nhân, rồi mở lớp dạy nghề truyền thống cho lao động nông thôn, nhằm tận dụng nguyên liệu tại chỗ và lao động nông nhàn. Cách đây không lâu, trụ sở HTX làng nghề được Nhà nước đầu tư xây dựng, cùng với thiết bị sản xuất hàng thủ công, xã viên được Trung tâm Khuyến công cho đi đào tạo nghề, kết hợp với tham quan học tập kinh nghiệm các làng nghề truyền thống nơi khác. Thế nhưng, khó nhất vẫn là sản phẩm không có đầu ra, chủ yếu bán tại chợ xã, chợ huyện, với giá thấp, người thợ chủ yếu gia công theo đơn đặt hàng.
Cũng phải thấy rằng, các sản phẩm thủ công với nguyên liệu tạp, độ bền thấp đang bị các sản phẩm công nghiệp với chất liệu bằng sắt, nhựa, ni-lông, với độ bền cao, giá thành hợp lý, tính tiện lợi cao thay thế. Cơ chế thị trường tạo áp lực với ngành nghề truyền thống nông thôn về giá cả, chất lượng và mẫu mã sản phẩm, đó là chưa kể đến chữ tín của cơ sở sản xuất đối với sản phẩm làm ra. Mức độ luân chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị ngày càng nhanh trước sự bung ra của các khu công nghiệp, khu đô thị là một thử thách không nhỏ với các cơ sở TTCN, làng nghề truyền thống trong việc giữ chân người lao động và các nghệ nhân. Việc cơ giới hóa một số công đoạn sản xuất thủ công, cùng với đào tạo, nâng cao tay nghề người lao động đang được các cơ sở TTCN áp dụng.
Chúng tôi đến thăm HTX làng nghề Phú Tân, huyện Châu Thành (Sóc Trăng). HTX được Trung tâm Khuyến công hỗ trợ máy chẻ trúc, máy vót nang, máy ép bọc hút chân không. Trung tâm Dạy nghề huyện hỗ trợ cho hai cán bộ HTX đi học tập ở làng nghề đan đát tỉnh Ðồng Tháp, rồi học nghề ở HTX đan lục bình Kim Hưng ở quận Cái Răng (Cần Thơ), khi về có tổ chức dạy nghề đan lục bình cho bà con trong làng nghề, nhưng số người học nghề quá ít, cho nên không thể hợp đồng gia công đan hàng xuất khẩu được. Có lý do là bà con quen đan đát các mặt hàng tre, trúc, cho nên khi đổi sang các mặt hàng khác thao tác chưa quen, làm chậm, thu nhập thấp, đồng thời việc tập trung bà con vào làng nghề gặp khó vì quen nếp làm việc tại nhà để thuận tiện trông coi nhà, chăm sóc con cháu.
Trên địa bàn TP Cần Thơ, các HTX thủ công nghiệp được hình thành từ những làng nghề như: HTX lợp tép Thành Công, HTX đan lục bình Kim Hưng, HTX dệt chiếu Thắng Lợi, thu hút hơn 500 hộ xã viên và hàng nghìn lao động. Với những hoạt động hỗ trợ vốn, dạy nghề, cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, các HTX này đã góp phần ổn định và phát triển làng nghề làm cho sản phẩm từ làng nghề có khả năng cạnh tranh hơn. Mặt hạn chế là sản phẩm từ các HTX chưa xây dựng được thương hiệu, mẫu mã còn đơn điệu, quy mô hợp tác xã còn nhỏ, thiếu vốn đầu tư đổi mới công nghệ.
Trên thực tế, ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chưa thật sự bám rễ tại nông thôn đồng bằng sông Cửu Long, ngành nghề truyền thống hoạt động còn mang tính tự phát, quy mô nhỏ, manh mún, chủ yếu làm tại nhà với các nguyên liệu tại chỗ, ít chú ý đến hình thức, chủ yếu tận dụng lao động nông nhàn, phục vụ kế sinh nhai trước mắt theo thời vụ. Một trong những hạn chế của làng nghề tại Tây Nam Bộ thể hiện qua tính chất hoạt động đơn lẻ, làm ăn riêng lẻ, thiếu liên kết, thiếu tính phường, hội nhà nghề, cho nên khó khăn trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm. Không thể để làng nghề truyền thống 'tự bơi', yêu cầu đặt ra là cần bàn tay Nhà nước trong việc quy tụ, gắn kết các cơ sở sản xuất, hộ gia đình, nghệ nhân với nhau dưới hình thức các xóm nghề, làng nghề, hiệp hội. Cách đặt vấn đề sẽ hợp lý hơn khi xác định việc phát triển ngành nghề truyền thống để tạo công ăn việc làm cho lao động nông thôn, là bước đệm để đào tạo công nhân cho các cơ sở công nghiệp, TTCN, khu công nghiệp, khu nông nghiệp công nghệ cao, xuất khẩu lao động...
Tìm lối ra
Làng nghề truyền thống sản xuất bánh bía, bánh mè láo, lạp xưởng của huyện Châu Thành, huyện Mỹ Tú (Sóc Trăng) lại phát triển khá mạnh, hàng hóa phong phú, đa dạng về chất lượng, mẫu mã và có uy tín với khách hàng trong tỉnh và ngoài tỉnh, là món quà đem về của những ai từng đến Sóc Trăng. Hiện nay, làng nghề này cạnh tranh khá tốt trên thị trường về giá cả, chất lượng và mẫu mã sản phẩm. Các cơ sở sản xuất tự đầu tư máy móc hiện đại, cùng với bí quyết pha trộn nguyên liệu và cải tiến mẫu mã để nâng cao chất lượng sản phẩm. Những năm qua, lò bánh bía Tân Huê Viên, lạp xưởng Mai Quế Lộ ngày càng gia tăng việc xuất hàng đi Mỹ, Ô-xtrây-li-a... Ðây là điều cần suy nghĩ và chắt lọc trong chiến lược quy hoạch và phát triển làng nghề truyền thống tại Tây Nam Bộ.
Các làng nghề truyền thống Tây Nam Bộ đang hướng tới sản phẩm mang tính 'độc chiêu'? Tuy nhiên cần phải đăng ký thương hiệu nhằm cầu chứng cho sản phẩm khi tiêu thụ trên thị trường trong nước và nước ngoài, bài học bánh tráng Bến Tre, nước mắm cá cơm Phú Quốc cần được rút kinh nghiệm. Tựu chung, ngành nghề truyền thống trong vùng với các loại sản phẩm phục vụ cho thực tế sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tại địa phương, thí dụ như nghề đan cần xé, dệt chiếu ở vùng đồng bào dân tộc Khmer, đan lưới các xã ven biển, nước mắm Phú Quốc, đường Thốt Nốt ở huyện Tri Tôn, Tịnh Biên (An Giang)... Gần đây các cơ sở sản xuất thủ công, mỹ nghệ tập trung làm các mặt hàng phục vụ các dịch vụ du lịch và làm hàng xuất khẩu. Bước đầu một số mặt hàng gây chú ý tới khách du lịch như ngọc trai Phú Quốc, đồi mồi Hà Tiên (Kiên Giang), sản phẩm làm bằng da cá sấu của làng nghề Mỹ Khánh (huyện Phong Ðiền, TP Cần Thơ), sản phẩm làm bằng lục bình phục vụ xuất khẩu tại huyện Phụng Hiệp (Hậu Giang)...
Cũng phải thấy rằng ngoài sự đóng góp về kinh tế, về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, làng nghề truyền thống Tây Nam Bộ hiện đang gìn giữ những giá trị văn hóa - lịch sử về đất nước và con người vùng sông nước, miệt vườn Nam Bộ. Những giá trị đóng góp về mặt văn hóa của làng nghề truyền thống Tây Nam Bộ cần được lưu tâm trong quy hoạch phát triển ngành nghề TTCN, trong bảo tồn, cẩn trọng các yếu tố thẩm mỹ của những họa tiết, hoa văn trong phát triển thương hiệu các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ. Bởi vậy, việc quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống Tây Nam Bộ cần lồng ghép với các chính sách và giải pháp phát triển đời sống văn hóa cơ sở, xóa đói, giảm nghèo, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, xây dựng xã nông thôn mới.
Vấn đề cần kíp hiện nay là đào tạo nghề cho lực lượng kế thừa và nâng cao chất lượng sản phẩm. Một tình trạng chung tại Tây Nam Bộ là những nghệ nhân làng nghề truyền thống thì ngày càng già đi, số thợ trẻ thì không chí thú với nghề, sẵn sàng bỏ nghề, bỏ quê để kiếm công việc khác có thu nhập cao hơn tại thành phố, thị xã. Tỷ lệ số thợ thủ công được đào tạo, bỏ nghề cũng không ít. Ðó cũng là lý do khiến làng nghề truyền thống khó mở rộng quy mô, hoạt động thiếu sinh khí, thiếu cải tiến về mẫu mã và chủng loại sản phẩm. Tình trạng 'thiếu thầy, ít thợ' ảnh hưởng trực tiếp tới việc nâng cao chất lượng sản phẩm thủ công truyền thống. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm từ khâu chọn lọc nguyên liệu, cách thức sấy khô, hút chân không, chẻ, chuốt nguyên liệu, rồi bàn tay khéo léo của người thợ, trình độ thẩm mỹ trên các hoa văn, họa tiết tạo nên độ tinh xảo và nâng giá trị cho sản phẩm thủ công truyền thống dần trở thành quy trình bài bản tại làng nghề Tây Nam Bộ. Việc giữ chân các nghệ nhân, mở các lớp đào tạo nghề truyền thống, mở điểm trưng bày các sản phẩm truyền thống, kết hợp với hoạt động quảng bá sản phẩm của các làng nghề trên địa bàn là hết sức cần thiết.