Chuyện đời chuyện nghề

Người dựng tượng đài

Ô hay, tượng đài thì phải gắn với nghệ sĩ điêu khắc hay kiến trúc sư chứ nhà văn sao có thể làm nổi.
Ký họa chân dung nhà văn Dương Hướng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.
Ký họa chân dung nhà văn Dương Hướng của họa sĩ Đỗ Hoàng Tường.

Vậy mà có đấy, cụm tượng đài, khu lưu niệm “Bến không chồng” được dựng tại làng Đông (thôn An Lệnh, xã Thụy Liên, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) do chính nhà văn Dương Hướng khởi lên từ tiểu thuyết “Bến không chồng” và được nhân dân cùng chính quyền địa phương tạo dựng để tri ân tác phẩm xuất sắc này. Đây cũng chính là quê hương của tác giả. Cụm tượng đài, khu lưu niệm gồm nhiều hạng mục: bia đá khắc đại tự, khuôn viên, tiểu cảnh, kệ đá hai bên bờ sông Đình Đoài. Tượng đài, bia được chế tác từ đá nguyên khối, có dáng dấp người thiếu phụ bồng con. Một sự hy hữu nhưng không hề lạ kỳ. Mới hay văn học luôn có những điều kỳ diệu và nhà văn có thể làm những việc tưởng chừng không thể.

Năm 1991 là năm bội thu của văn học Việt. Nói chính xác hơn là một năm được mùa của thể loại tiểu thuyết. Cùng với “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc Trường, tiểu thuyết “Bến không chồng” của nhà văn Dương Hướng đã tạo ra một sự đột phá lớn trong mặt bằng văn học. Cả ba cuốn tiểu thuyết được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và tạo sóng dư luận không chỉ trong nước. Trong đó “Bến không chồng” - tác phẩm viết về một làng quê Việt Nam trải qua những cuộc chiến tranh với thân phận những người phụ nữ ở hậu phương mòn mỏi chờ chồng, chờ con ngoài mặt trận. Cái bến sông của một làng quê bình dị được nhà văn gọi là “Bến không chồng”. Một bến sông nhưng nó chứa đựng những bi tráng thời đại.

Tôi đọc “Bến không chồng” trong tâm thế của một người lính trở về sau cuộc chiến nên có nhiều đồng cảm với những người ra trận. Thế nhưng những gì xảy ra ở làng Đông mới là khám phá mới mẻ về một hậu phương tưởng yên bình nhưng lại bội phần dữ dội. Nếu như bom đạn là thước đo của sự ác liệt thì làng Đông với bến sông, bóng nước, ruộng đồng và những người nông dân hiền lành, cần cù chịu khó lại phải chịu đựng không chỉ bom đạn chết chóc mà chiến tranh mang đến. Từ làng Đông của những ngày đầu hòa bình 1954 với sự kiện cải cách ruộng đất đến một làng Đông hậu phương của cuộc chiến chống Mỹ chứa đựng bao nhiêu số phận cùng đủ mọi cung bậc cho đến tận ngày chiến tranh kết thúc và còn kéo dài sau đó. Mấy chục năm trường đằng đẵng chứa đựng bao câu chuyện đời người về tình yêu hạnh phúc, đau thương chia lìa không thiếu, cả những trả giá cho sai lầm hay sự dũng cảm hoặc đớn hèn. Nhưng nổi bật nhất vẫn là hình ảnh những người phụ nữ đơn chiếc lẻ bóng ở cái bến sông đã trở thành huyền thoại. Và giờ đây nó trở nên bất tử với tượng đài “Bến không chồng”.

Tôi có may mắn được gặp gỡ quen biết cả ba tác giả mùa tiểu thuyết bội thu của văn học Việt. Với nhà văn Dương Hướng, sự gặp gỡ có muộn mằn hơn chút ít cũng bởi anh ở tận Quảng Ninh, ít có điều kiện giao lưu như ở Hà Nội. Khi đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển thể tiểu thuyết và dựng thành phim điện ảnh cùng tên thì giá trị cuốn tiểu thuyết “Bến không chồng” như được tăng lên gấp bội. Điện ảnh có cách khai thác rất riêng những gì văn học chuyển tải. Ở phim “Bến không chồng” tôi biết đạo diễn Lưu Trọng Ninh dành nhiều tâm huyết bởi ông trân quý tác phẩm này. Bằng chứng là ngoài chuyển thể kịch bản, làm đạo diễn, Lưu Trọng Ninh còn làm một việc dũng cảm: dám đánh cược sự thành bại của phim vào việc tự mình thủ vai chính - nhân vật Vạn. Còn nữa, sau phim điện ảnh “Bến không chồng” sản xuất năm 1999, gần hai chục năm sau ông tiếp tục khai thác tiểu thuyết này bằng một phim truyền hình dài tập mang tên “Thương nhớ ở ai” phát trên sóng truyền hình quốc gia và cũng thành công vang dội. Ở Việt Nam có lẽ đây là tác phẩm văn học hiếm hoi được một đạo diễn chuyển thể kịch bản và đạo diễn ở cả phim điện ảnh lẫn phim truyền hình. Nói hơi nhiều về phim là tôi muốn nhấn mạnh thêm ở khía cạnh thành công của ngòi bút nhà văn Dương Hướng.

Tôi gặp Dương Hướng sau khi phim “Bến không chồng” ra đời. Thú thật ngoài sự ngưỡng mộ tác phẩm ở cả văn học lẫn điện ảnh, tôi vẫn có ý tiếc bộ phim mới chỉ khai thác được phần nào những gì tác giả gửi gắm trong tiểu thuyết. Nhà văn có vẻ tâm đắc với những gì tôi chia sẻ. Nhưng ảnh hưởng tích cực của bộ phim điện ảnh có vẻ khiến cho nhà văn ngần ngại về ý định tiếp tục đưa tiểu thuyết này thành phim. Ông tâm sự sẽ viết cuốn tiểu thuyết dày có giãn cách thời gian gần trăm năm mang tựa đề “Dưới chín tầng trời” với hy vọng có thể trở thành một bộ phim bề thế. Sau đó, một biên kịch trẻ chuyển thể tiểu thuyết này thành kịch bản phim dài tập nhưng quy mô đồ sộ của tác phẩm và giãn cách thời gian quá lớn nên dự án không thành hiện thực. Nói thêm, với Dương Hướng, dù ngưỡng mộ nhưng có vẻ tôi khá vô duyên với việc làm phim từ tác phẩm của ông. Ngoại trừ biên tập phim “Thương nhớ ở ai” có chút ít kỷ niệm còn thì tôi thất bại trong mọi ý định, trong đó có cả tiếc nuối lẫn ân hận khi không thể đưa “Dưới chín tầng trời” từ kịch bản thành phim dù tôi thường là một “bà đỡ” mát tay.

Dương Hướng ngoài đời không có mấy dáng vẻ nhà văn. Ông xuề xòa giản dị và khá hiền lành, tốt tính, đặc biệt rất chu đáo với anh em bạn bè. Từ một anh lính trở về sau chiến tranh, Dương Hướng chuyển ngành sang Hải quan và viết văn. Trước khi vào bộ đội năm 1971, ông có nhiều năm là công nhân quốc phòng, làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa trên tuyến lửa khu Bốn. Ông công tác một mạch ở Cục Hải quan Quảng Ninh cho đến ngày về hưu năm 2008. Nói về sự tốt tính, mỗi lần cánh chúng tôi đến Quảng Ninh, ông đều mời đến nhà đối đãi một cách rất thịnh tình. Từ nhà cũ ở gần chợ Hạ Long đến ngôi nhà mới khang trang ở khu Cầu mới và cả nhà con gái, con rể ở Hà Nội luôn có mặt bạn bè của ông.

Viết chi tiết này, tôi băn khoăn nâng lên đặt xuống chán chê mới dám động bàn phím. Dương Hướng cưới vợ rồi mới vào bộ đội. Khi chiến tranh kết thúc chả biết số phận đưa đẩy thế nào, sau đó ông biết mình có đứa con trai với một phụ nữ nơi đơn vị đóng quân. Với người khác có thể đây là sự cố động trời có thể tan vỡ gia đình, nhưng mọi sự được Dương Hướng sắp xếp êm đẹp. Ông đón con về Quảng Ninh, bố trí học hành và gây dựng sự nghiệp. Bây giờ người con trai ấy của ông đã yên bề gia thất, sống hòa thuận cùng với hai người con một trai, một gái do vợ ông sinh ra. Có lần tôi hỏi về mẹ thằng cu trong nam, Dương Hướng cười cười, ổn mà bả có thêm một người con nữa sau này. Chi tiết đời tư này của Dương Hướng, không biết gây cho ông những sóng gió đến đâu nhưng với những gì tôi chứng kiến thì đó là một câu chuyện phức tạp có cái kết hậu. Thâm tâm tôi nghĩ chỉ những người hiền hậu, chu đáo như ông mới hành xử được như vậy.

Nhà văn Dương Hướng viết không nhiều, ba tiểu thuyết, vài tập truyện ngắn nhưng đó đều là những tác phẩm xứng đáng với vị thế của ông trên văn đàn. Nhiều giải thưởng văn học đến từ những tác phẩm này, riêng tiểu thuyết “Bến không chồng” được dịch ra tiếng Pháp, tiếng Italia. Nhưng thành tựu lớn nhất mà hiếm nhà văn nào đạt được, đó chính là cụm tượng đài “Bến không chồng” do chính quê hương ông dựng lên để tôn vinh cho một tác phẩm văn học xuất sắc.