Chính phủ, Quốc hội đã áp dụng nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, ngành ngân hàng cũng nhiều lần điều chỉnh giảm lãi suất,… song dường như vẫn chưa đủ để doanh nghiệp vực dậy.
Doanh nghiệp “khốn đốn” vì Covid
Theo TS Phạm Đình Thúy, Vụ trưởng Thống kê công nghiệp và xây dựng, (Tổng cục Thống kê - Bộ Kế hoạch và Đầu tư), quý III/2021, khu vực doanh nghiệp (DN) và toàn bộ nền kinh tế chịu tác động nặng nề nhất do tác động của dịch Covid-19, đặc biệt là đợt dịch thứ 4 bùng phát từ tháng 5/2021 đến nay.
TS Thúy dẫn số liệu cụ thể: ngành công nghiệp ba tháng liên tiếp suy giảm, tăng trưởng ngành công nghiệp tháng 4 tăng hơn 22%, nhưng giảm nhanh xuống 11% trong tháng 6, và -0,3% trong tháng 7, -7% trong tháng 8. Đây là con số cho thấy ngành công nghiệp là ngành động lực tăng trưởng cao nhất của nền kinh tế hiện nay cũng có mức độ suy giảm lớn như vậy, thì chắc chắn nhiều ngành kinh tế khác chịu tác động lớn hơn của Covid-19 sẽ có tăng trưởng thấp hoặc suy giảm.
“Hiện nay chúng tôi chưa có số liệu về GDP quý III cũng như trong 9 tháng, chúng tôi cho rằng quý III năm nay có lẽ là quý sụt giảm nhất trong các quý từ trước đến nay. Cũng như năm 2021 mức độ tăng trưởng thấp hoặc suy giảm có thể xảy ra”, TS Phạm Đình Thúy cho biết thêm.
Trong bối cảnh chung của nền kinh tế suy giảm, du lịch là một trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ dịch Covid-19. Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam (Vietravel) Nguyễn Quốc Kỳ, cho biết: Do ảnh hưởng của đợt dịch thứ 4 (từ tháng 5 trở đi) đến hiện tại tất cả ngành du lịch đều phải đóng cửa toàn quốc. Tốc độ giảm về số 0. Dẫn đến hàng chục nghìn lao động bị thất nghiệp, hàng chục nghìn DN phải dừng sản xuất.
“Ngay như với Vietravel chúng tôi, một đơn vị đứng đầu trong ngành du lịch, với 1.700 nhân viên, có những thời điểm chúng tôi đến cơ quan chỉ 15-20 người để duy trì các hoạt động hành chính thông thường, bảo vệ cơ sở vật chất.
Doanh thu của Vietravel trước dịch khoảng 7000-8000 tỷ đồng/năm, đến giờ này sau 3 tháng hoạt động, chúng tôi đang rất lo lắng không biết có đạt được khoảng 10% hay không? Nếu từ nay đến cuối năm, Chính phủ chưa biết là cho đi thẻ xanh, thẻ vàng thế nào, tâm lý của người dân có được giải tỏa hay không? Đó là con số chúng tôi chưa từng nghĩ tới. Đánh lùi Vietravel trở lại 13-14 năm trước”, ông Nguyễn Quốc Kỳ chia sẻ.
Khẩn cấp “bơm” vốn
Trước những khó khăn bởi dịch Covid-19, nhất là dòng tiền cạn kiệt, cộng đồng doanh nghiệp (DN) đã “khẩn cầu” tới Thủ tướng sớm ban hành gói hỗ trợ lãi suất trực tiếp (4%/năm) và nới điều kiện vay để tiếp cận vốn. Tại Phiên họp thứ 3 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ cũng đã đề nghị Chính phủ xem xét về gói cấp bù lãi suất cho ngân hàng để giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp.
Chia sẻ tại buổi đối thoại trực tuyến “Gói hỗ trợ lãi suất: Vốn phải đến đúng đích” do Tạp chí Kinh tế Việt Nam – VnEconomy vừa tổ chức, ông Nguyễn Tuấn Anh, Vụ trưởng Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết: Thời gian qua, phía ngân hàng đã có rất nhiều giải pháp hỗ trợ DN. Đến thời điểm hiện tại, hệ thống các ngân hàng thương mại (NHTM) đã hạ lãi suất lũy kế từ khi có dịch đến nay là hơn 26.000 tỷ đồng.
Liên quan đến việc dùng ngân sách Nhà nước cấp bù lãi suất cho ngân hàng để giảm lãi suất cho vay nhằm tháo gỡ khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp và giải pháp hỗ trợ dựa trên chi phí lao động (tương tự gói hỗ trợ năm 2009), ông Nguyễn Tuấn Anh nhìn nhận, hiện tại cần thiết phải có những gói hỗ trợ để chia sẻ với DN.
“Như thông tin chúng tôi cập nhật gần nhất, dự kiến gói này sẽ tăng lên khoảng 3.000 tỷ đồng, tức là tương đương khoảng 100.000 tỷ đồng dư nợ để hỗ trợ người dân, DN trong thời gian tới. Nhưng tới đây khi xây dựng cơ chế chính sách chúng ta phải tính toán tới hai mục tiêu: Mục tiêu quan trọng nhất là ổn định vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Không bảo đảm được hai mục tiêu này thì các chính sách được đưa ra có thể sẽ không tích cực, thậm chí còn phản ứng ngược, gây tác hại lớn cho nền kinh tế”, ông Nguyễn Tuấn Anh cho biết.
Vì vậy, ngành ngân hàng tới đây sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ban ngành để xây dựng những kịch bản, chương trình nếu triển khai gói hỗ trợ này.
“Gói kích cầu năm 2009 đã đạt được một số mục tiêu. Tuy nhiên, nếu nói thành công toàn diện thì chưa và đó cũng là cơ sở để Ngân hàng Nhà nước và cơ quan quản lý tính toán biện pháp hỗ trợ dòng tiền. Phải linh hoạt vận dụng từ chính sách tiền tệ cho đến chính sách tài khóa để làm sao đạt được ổn định kinh tế và hỗ trợ người dân khôi phục hoạt động sản xuất kinh doanh”, đại diện lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nhấn mạnh thêm.
Trên một góc độ khác, theo đánh giá của TS Lê Xuân Nghĩa, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, Viện trưởng Nghiên cứu và Phát triển kinh doanh: Quy mô gói cấp bù lãi suất 3.000 tỷ đồng tương đương quy mô dư nợ hơn 100.000 tỷ đồng vẫn quá nhỏ để tạo ra sức bật cho nền kinh tế phục hồi rõ rệt.
“Điều đáng lo ngại nhất chính là làm thế nào để DN tiếp cận được. Nếu theo luật của các tổ chức tín dụng thì các DN tiếp cận được rất ít, một là không có nợ xấu, hai là phải có doanh thu, ba là có lợi nhuận, bốn là có tài sản bảo đảm. Do vậy nếu muốn tạo ra khuôn khổ pháp lý để giúp các DN thực sự khó khăn thì phải có một quy chế đặc biệt dùng cho gói cứu trợ này, để không ảnh hưởng tới các tổ chức tín dụng. Trong gói đặc biệt này có một quy chế riêng cho nó, kéo dài trong một thời gian, hết hạn là kết thúc ngay”, TS Lê Xuân Nghĩa nêu rõ.
Đồng tình với ý kiến của TS Lê Xuân Nghĩa, TS Phạm Đình Thúy cũng cho rằng: Từ trước tới nay, các gói hỗ trợ đều bế tắc ở việc không thể tiếp cận được vì điều kiện quá ngặt nghèo, đặc biệt trong vấn đề bảo toàn vốn. “Ở đây nghĩa là phải có tài sản thế chấp, hay chứng minh phương án kinh doanh có lợi nhuận để trả lãi ngân hàng. Cuối cùng là không ai giải quyết được, nhà nước không thể bảo lãnh, ngân hàng thì càng không, rốt cục thì không ai vay được. Nếu không thể tháo gỡ được thì vấn đề hỗ trợ vẫn bế tắc”, TS Phạm Đình Thúy bày tỏ quan điểm.