11 ý kiếm tham luận tiếp tục bày tỏ đồng tình, nhất trí cao với các dự thảo văn kiện trình Đại hội. Các tham luận đề cập nhiều nội dung lớn trong các văn kiện Đại hội, được chuẩn bị công phu, kỹ lưỡng, khoa học, chất lượng, thể hiện tư duy và khát vọng đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước.
Nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
Đánh giá về công tác kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ qua, Trung ương đã khẳng định công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII, nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng của các địa phương, đơn vị; góp phần nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật của tổ chức đảng, đảng viên, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; ngăn ngừa các nguy cơ của Đảng cầm quyền...
Mặt khác, qua công tác kiểm tra, giám sát đã kịp thời phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong lãnh đạo, quản lý, những bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật để đề xuất, kiến nghị cấp có thẩm quyền bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Theo đồng chí Mai Trực, Ủy viên T.Ư Đảng, Phó Chủ nhiệm UBKT T.Ư, góp phần tích cực hơn nữa vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra giám sát nhiệm kỳ tới cần nhận thức đúng, đầy đủ hơn; tiếp tục khẳng định kiểm tra, giám sát là những chức năng, phương thức lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy ….
Cấp ủy, tổ chức đảng, UBKT các cấp cần nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu lực, hiệu quả và tạo bước tiến mới trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng. Cấp ủy các cấp phải thường xuyên tự kiểm tra, nhất là đối với cấp ủy viên và cán bộ diện cấp ủy cấp mình quản lý, kịp thời chỉ ra những ưu điểm để phát huy, phát hiện những hạn chế, khuyết điểm để chủ động khắc phục, chấn chỉnh…
UBKT các cấp phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và phạm vi trách nhiệm theo Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng; chủ động, tích cực tham mưu, giúp cấp ủy về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng. Ủy ban kiểm tra cấp trên tăng cường chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra cấp dưới trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa UBKT với các đảng ủy, Ban cán sự đảng, Đảng đoàn liên quan; phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử….
Nhận thức mới về sứ mệnh và vai trò của ngoại giao
Khẳng định trong những thành tựu chung đó của đất nước, ngoại giao cách mạng Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng, theo đồng chí Bùi Thanh Sơn, Ủy viên T.Ư Đảng, Thứ trưởng Thường trực Bộ Ngoại giao, trong nhiệm kỳ qua, ngành đối ngoại đã nỗ lực cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân triển khai thắng lợi đường lối đối ngoại Đại hội XII. Trên tinh thần linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả và toàn diện trên tất cả các trụ cột: đối ngoại Đảng, Ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân, đối ngoại quốc phòng, đối ngoại an ninh và các lĩnh vực khác.
Bối cảnh mới đặt ra cho nước ta vận hội mới. Đó là vận hội của một Việt Nam đứng trước những mục tiêu và khát vọng phát triển cao hơn trước; đây vừa là tiền đề vừa là đòi hỏi tất yếu chúng ta cần có tầm nhìn và nhận thức mới về sứ mệnh và vai trò của ngoại giao. Đó là nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, kiên định đường lối của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, năng động, sáng tạo, chủ động thích ứng trước mọi chuyển biến của tình hình, xác định phục vụ phát triển đất nước là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, đồng thời coi trọng an ninh để bảo đảm phát triển, nâng cao vị thế để phục vụ tốt hơn cho an ninh và phát triển. Trên cơ sở đó, đối ngoại cần đặt trọng tâm vào các mục tiêu phát triển, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chủ chốt sau:
Thứ nhất, củng cố tin cậy chính trị, nâng tầm, đưa vào chiều sâu quan hệ của ta với các đối tác, nhất là các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các nước bạn bè truyền thống, trên tinh thần bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau và phù hợp với luật pháp quốc tế.
Thứ hai, đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, với trọng tâm là hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, giáo dục và đào tạo, hướng ưu tiên vào phát triển bền vững, bao trùm.
Thứ ba, triển khai mạnh mẽ, hiệu quả, sáng tạo và nâng tầm hơn nữa đối ngoại đa phương từ chủ động, tích cực tham gia sang từng bước đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự kinh tế - chính trị quốc tế.
Thứ tư, đối ngoại tiếp tục kết hợp chặt chẽ giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và với quốc phòng và an ninh để tạo thế chân kiềng vững chắc, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thứ năm, nâng cao hiệu quả, đổi mới nội dung, hình thức, phương thức của công tác ngoại giao văn hóa, thông tin tuyên truyền đối ngoại, công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ sáu, xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại ở tất cả các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và các bộ, ban, ngành, địa phương “vừa hồng vừa chuyên”, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chuyên môn, thông thạo kỹ năng, trong đó có các kỹ năng ngoại giao trong thời đại số, ngoại giao đa phương; ngày càng chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo, và chủ động thích ứng với tình hình…
Phát triển nông nghiệp hàng hóa gắn xây dựng nông thôn mới
Khái quát những kết quả nổi bật của ngành nông nghiệp những năm qua, nhất trí cao với dự thảo các văn kiện, các quan điểm, mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ chủ yếu phát triển nông nghiệp giai đoạn 5 năm tới, đồng chí Nguyễn Xuân Cường, Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nêu định hướng của ngành nông nghiệp. Theo đó, phát triển nông nghiệp hàng hóa tập trung quy mô lớn theo hướng hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững; phát triển nông nghiệp xanh, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu; tiếp tục triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới theo hướng gắn với quá trình đô thị hóa, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững. Mục tiêu chính là tiếp tục phát triển bền vững theo 3 trụ cột “kinh tế, xã hội và môi trường”.
Trong các nhóm giải pháp, song song với thay đổi nhận thức và cách tiếp cận về sản xuất nông nghiệp hàng hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế và biến đổi khí hậu, cần thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp cơ cấu lại ngành; trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp hàng hóa và xây dựng nông thôn mới, nhất là cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, đầu tư, bảo hiểm, hợp tác công tư. Thông tin, dự báo tình hình thị trường, tranh thủ lợi thế các Hiệp định thương mại tự do và các cam kết quốc tế để ổn định, giữ vững các thị trường truyền thống, quy mô lớn, phát triển thị trường mới.
Bên cạnh đó, cần phát triển công nghiệp chế biến và cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp, ứng dụng công nghệ cao, thông minh tăng tỷ trọng chế biến sâu để giảm chi phí, nâng cao giá trị sản phẩm; ứng dụng khoa học - công nghệ, tập trung giải quyết các khâu then chốt; đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả gắn với quá trình “chuyển đổi số, kinh tế số”; hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp, đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, kết nối với hệ thống tiêu thụ toàn cầu...
Chia sẻ kinh nghiệm từ Đồng Tháp, với mong muốn tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc chuyển đổi từ "tư duy sản xuất nông nghiệp" sang "tư duy kinh tế nông nghiệp" thích ứng với biến đổi khí hậu và xu thế thị trường, đồng chí Lê Quốc Phong, Ủy viên dự khuyết T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, cho rằng, cần có nghiên cứu để tính toán đầy đủ hơn đóng góp của khu vực nông nghiệp vào tăng trưởng kinh tế. Theo xu thế hiện nay, không chỉ dựa vào năng suất, sản lượng, giá trị gia tăng làm thước đo cho sự tăng trưởng của ngành, mà cần chú trọng hơn đến "lợi nhuận đạt được" của sản phẩm nông nghiệp. Tiếp đến, cần có sự nghiên cứu, xem xét tách quy định về phát triển Hợp tác xã nông nghiệp thành một Luật hoặc Nghị định riêng của Chính phủ.
Song song hỗ trợ phát triển mô hình "Vườn ươm doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao", tạo điều kiện thuận lợi không chỉ cho hoạt động của Vườn ươm, mà cả cho việc khuyến khích nhu cầu sáng tạo, kinh doanh của phía cầu và thúc đẩy tăng cường các dịch vụ hướng đến doanh nghiệp khởi nghiệp từ phía cung; quan tâm tổ chức, xây dựng đầy đủ nguồn cơ sở dữ liệu thông tin ngành Nông nghiệp, thông tin về hoạt động đầu tư cũng như nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước đối với từng mặt hàng nông sản để có những đánh giá, dự báo chuyển động của thị trường, đưa ra các khuyến cáo phù hợp. Từ đó, Nhà nước sẽ có đủ thông tin để đề ra những chính sách phù hợp với thực tế sản xuất; người sản xuất, doanh nghiệp cũng có đủ thông tin để tự tính toán, đề ra cho mình phương án, lộ trình đầu tư, phát triển sản xuất theo hướng dài hạn, chuyên nghiệp hơn…
Đổi mới, nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ
Kiến nghị những giải pháp điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và hoạt động ngân hàng, trong bối cảnh thương mại giữa các nước lớn vẫn gia tăng, các đối tác thương mại lớn quan tâm sâu hơn về điều hành kinh tế vĩ mô, CSTT và gia tăng giám sát thương mại đối với Việt Nam, đồng chí Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nêu tám nhóm vấn đề. Trong đó, tiếp tục kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; cải thiện chất lượng đầu vào cho hoạch định chính sách (nâng cao chất lượng thống kê, phân tích, dự báo), chủ động, thận trọng và linh hoạt điều hành các giải pháp và công cụ CSTT... Thực hiện đồng bộ các biện pháp chuyển quan hệ huy động vốn và cho vay ngoại tệ giữa tổ chức tín dụng với khách hàng vay sang quan hệ mua bán ngoại tệ để tiếp tục giảm tình trạng đô la hoá trong nền kinh tế; triển khai lộ trình từng bước tự do hóa giao dịch vốn của Việt Nam một cách thận trọng, phù hợp...
Song song giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi sau đại dịch Covid-19, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững; Tín dụng mở rộng tín dụng theo hướng tập trung vốn cho vay đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động; tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của TCTD, đặc biệt là đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao; tập trung hoàn thành các nhiệm vụ phát triển thị trường kinh doanh thương mại tại Việt Nam. Đẩy mạnh xây dựng hạ tầng công nghệ phục vụ cho việc chia sẻ, cung ứng các sản phẩm số và tăng cường tích hợp, kết nối với các Bộ, ngành, lĩnh vực còn lại để mở rộng hệ sinh thái; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng thành tựu CMCN 4.0 trong hoạt động thanh toán...
Tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn những định hướng lớn của Đảng
Nhiều nội dung trong văn kiện được các đại biểu làm rõ thêm và cung cấp dữ liệu tổng kết từ thực tiễn, nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn những mục tiêu mà văn kiện Đại hội đặt ra. Trong đó có vấn đề xây dựng kinh tế tuần hoàn trong thập niên 2021-2030; phát huy sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam trong sự phát triển đất nước; về quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao năng lực cạnh tranh về nhân lực, bảo đảm tiến bộ, công bằng, an sinh xã hội....
Về vấn đề xây dựng kinh tế tuần hoàn trong thập niên 2021-2030, đồng chí Trần Hồng Hà, Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường nhận định, sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã vươn lên thành một điểm sáng tăng trưởng trong khu vực và trên thế giới với nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nền kinh tế không chỉ tăng trưởng về quy mô mà chất lượng tăng trưởng cũng được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân được nâng cao. Tuy nhiên, nước ta đang phải đối mặt với nhiều thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm, suy thoái môi trường và biến đổi khí hậu. Thực tiễn đó đòi hỏi chúng ta phải thay đổi cách tiếp cận và chuyển đổi mô hình phát triển sang phát triển kinh tế tuần hoàn.
Đồng chí cho rằng, để thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam cần thực hiện đồng bộ các giải pháp từ nâng cao nhận thức đến hoàn thiện thể chế và tổ chức thực hiện. Ngay từ những năm đầu của thập niên 2021-2030, cần tập trung triển khai nhiều giải pháp để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam nhằm tận dụng những cơ hội hợp tác trong tiếp cận và tiếp nhận chuyển giao công nghệ phục vụ phát triển bền vững đất nước.Trong đó, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò kiến tạo để doanh nghiệp, người dân phát huy vai trò trung tâm trong xây dựng, phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam.
Để thực hiện chủ trương của Đảng về quản lý và phát triển xã hội, hướng đến mục tiêu vì con người và đặt con người vào trung tâm của quá trình phát triển, theo đồng chí Đào Ngọc Dung, Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Lao động- Thương binh và Xã hội cho rằng, cần thực hiện đồng bộ bảy nhóm giải pháp. Trong đó, thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng theo nguyên tắc bù đắp, cống hiến, đóng góp, hy sinh và công bằng; bảo đảm người có công và gia đình có mức sống cao hơn mức sống trung bình của dân cư trên địa bàn; Tiếp tục thực hiện chính sách giảm nghèo bền vững tiếp cận với chuẩn nghèo đa chiều, bao trùm để hỗ trợ người dân nâng cao chất lượng cuộc sống.
Yếu tố động lực là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên cơ sở tiếp tục đổi mới căn bản giáo dục, đào tạo: giáo dục phổ thông chú trọng nâng cao dân trí, văn hoá đạo đức, hướng nghiệp từ xa; đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở, linh hoạt, trọng tâm là hiện đại hoá để đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực gắn với nhu cầu của thị trường kao động; phát triển thị trường lao động cạnh tranh lành mạnh, đồng bộ, hiện đại và hội nhập; phát triển việc làm bền vững, nhất là cho thanh niên và lao động trung niên; tỷ lệ thất nghiệp thành thị dưới 4%; giảm lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp xuống dưới 25% vào năm 2025 và dưới 20% vào năm 2030; xây dựng hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng, linh hoạt, hiện đại, chia sẻ và hội nhập; phát triển trợ giúp xã hội toàn diện, đa dạng, bao trùm, hiệu quả, phù hợp với vòng đời con người, có sự chia sẻ giữa Nhà nước, xã hội và người dân.
Cuối cùng là thực hiện hiệu quả các chương trình nhà ở xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa nhà ở cho người di cư, người dân vùng chịu tác động của thiên tai và biến đổi khí hậu; bảo đảm nước sạch cho người dân nông thôn; nâng cao chất lượng thông tin truyền thông cho vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, miền núi và hải đảo.
Kiên trì mục tiêu phát huy sức mạnh văn hóa và con người Việt Nam trong sự phát triển bền vững đất nước đã được đặt ra từ nhiều năm, đồng chí Nguyễn Ngọc Thiện, Ủy viên T.Ư Đảng, Bộ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch khẳng định những thành tựu đạt được, bên cạnh còn nhiều bất cập, yếu kém. Trong đó, đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu. Môi trường văn hóa còn có những biểu hiện thiếu lành mạnh; tệ nạn xã hội, tội phạm vẫn diễn biến phức tạp...
Đồng chí cho rằng, trong giai đoạn tới, xây dựng văn hóa vì sự phát triển bền vững đất nước cần hướng đến xây dựng con người Việt Nam với những phẩm chất phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Đó là những phẩm chất quan trọng của con người Việt Nam như yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, kỷ cương, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Xây dựng và phát huy lối sống “Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh tạo điều kiện phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Môi trường văn hóa lành mạnh ở gia đình, nhà trường và xã hội sẽ là nơi hình thành, nuôi dưỡng, vun đắp nhân cách văn hóa và giáo dục lối sống cho con người Việt Nam, để cái tốt sẽ được bảo vệ, nhân lên, cái ác, cái xấu sẽ bị bài trừ, lên án; xây dựng văn hóa trong chính trị, kinh tế, chú trọng chăm lo xây dựng văn hóa trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, coi đây là nhân tố quan trọng để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa để tạo ra những sản phẩm, dịch vụ văn hóa của người Việt Nam, vì người Việt Nam, cho người Việt Nam...
Kiến giải nhiều vấn đề vừa có ý nghĩa thực tế, vừa nhân văn
Các ý kiến tham luận đồng thời kiến giải nhiều vấn đề vừa có ý nghĩa thực tế, vừa nhân văn, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng khó khăn; quan tâm hỗ trợ công nhân, phụ nữ, người nghèo... tiếp cận, thụ hưởng chính sách an sinh, xã hội; đồng thời nêu các giải pháp hỗ trợ hiệu quả hoạt động của các tổ chức công đoàn, phụ nữ trước tình hình mới.
Theo đồng chí Nguyễn Đình Khang, Ủy viên T.Ư Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, xu hướng hội nhập quốc tế mạnh mẽ, nhất là việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và nước ta phê chuẩn các công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế, cho phép ra đời tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp ngoài Công đoàn, đặt ra khả năng Công đoàn Việt Nam không phải là sự lựa chọn duy nhất của một bộ phận người lao động, trực tiếp thách thức vai trò, vị thế của tổ chức Công đoàn, đặt ra cho cả hệ thống chính trị nhiều vấn đề phải quan tâm giải quyết. Người lao động tăng nhanh về số lượng, nâng cao về trình độ, song giai cấp công nhân có dấu hiệu hụt hẫng, bất cập và phân hóa là những yếu tố tác động rất lớn đến tổ chức Công đoàn và chiến lược xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam.
Đề xuất giải pháp, đồng chí nêu vấn đề, cần tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động công đoàn. Tạo điều kiện phát huy vai trò của công đoàn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, nhất là các nhiệm vụ trọng tâm, cốt lõi....
Thay mặt tổ chức Công đoàn Việt Nam, đồng chí đề nghị Bộ Chính trị sớm thông qua “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động Công đoàn Việt Nam trong tình hình mới”, làm căn cứ ban hành nghị quyết chuyên đề, toàn diện về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Công đoàn Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của tình hình mới…
Về một số kết quả chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi (DTTS và MN) giai đoạn 2016 - 2020, đồng chí Đỗ Văn Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc cho rằng, từ thực tiễn công tác giai đoạn 2016-2020, rút ra ba bài học kinh nghiệm.
Một là, phải kiên định, kiên trì thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển; chăm lo công tác dân tộc là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị.
Hai là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động ở vùng đồng bào DTTS và MN; tăng cường nguồn lực đầu tư phát triển KT-XH, tạo sinh kế, giảm nghèo bền vững. Chú trọng củng cố và giữ vững niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước.
Ba là, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người dân tộc thiểu số; phát triển đảng viên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh. Phát huy vai trò của đội ngũ người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong 5 năm tới, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị từ trung ương đến địa phương, cơ sở “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực; tập trung triển khai hiệu quả các đề án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và MN. Bảo đảm và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi”.
Về quan tâm hỗ trợ phụ nữ tiếp cận, thụ hưởng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, đồng chí Hà Thị Nga, Bí thư Đảng đoàn, Chủ tịch Hội LHPN Việt nam nêu vấn đề, quan điểm bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội nhằm bảo vệ quyền của mỗi người dân là nhiệm vụ quan trọng được thể hiện khá rõ trong các chủ trương của Đảng. Điều đó khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ ta, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững đất nước.
Hội LHPN Việt Nam đề xuất bốn vấn đề cụ thể để hoàn thiện các chính sách có lồng ghép giới theo quy định của Luật Bình đẳng giới, tạo điều kiện để phụ nữ nói chung, đặc biệt là phụ nữ mang thai, nuôi con nhỏ, phụ nữ nông thôn, phụ nữ di cư, phụ nữ dân tộc thiểu số có cơ hội được tiếp cận, thụ hưởng đầy đủ các chính sách an sinh xã hội như việc làm, giáo dục, thai sản, nhà trẻ, nhà ở. Đặc biệt, cần coi đây là nền tảng phúc lợi, là ưu việt mà chế độ xã hội chủ nghĩa mang lại cho mỗi người dân để từng bước quan tâm giải quyết.
Thực hiện trách nhiệm của mình, Hội LHPN Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực phối hợp các bộ, ngành chức năng cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước, xây dựng, thực hiện các đề án, chương trình, các chính sách an sinh xã hội liên quan đến phụ nữ, góp phần thực hiện thành công nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đề ra "quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân".
Theo chương trình làm việc, ngày 28-1, Đại hội tiếp tục thảo luận tại hội trường.