Như vậy, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được xem như một khâu đột phá trong phát triển văn hóa, con người Việt Nam, giúp chúng ta phát huy giá trị văn hóa và sức mạnh con người Việt Nam nhằm thực hiện khát vọng phát triển Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, để văn hóa thật sự là nền tảng tinh thần, soi đường cho quốc dân đi trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Từ đầu những năm 2000, coi trọng yếu tố sáng tạo-nguồn lực lớn nhất cho sự phát triển của quốc gia-là một xu thế lớn trên thế giới. Các ngành kinh tế sáng tạo, công nghiệp văn hóa-sáng tạo đã và đang trở thành động lực cho sự phát triển kinh tế thế giới. Văn hóa nhờ đó được quan tâm nhiều hơn khi chính là tác nhân kích thích sự hình thành và tạo ra giá trị cho sáng tạo. Các ngành công nghiệp văn hóa trở thành một trong những lĩnh vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất ở các quốc gia phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật Bản hay Hàn Quốc. Công nghiệp văn hóa bao gồm các lĩnh vực sử dụng tài năng sáng tạo, tiềm năng (vốn) văn hóa, công nghệ và kỹ năng kinh doanh để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Xét trên bốn yếu tố đó, Việt Nam có lợi thế ở hai yếu tố đầu tiên.
Theo Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2020 (Global Innovation Index, viết tắt là GII), Việt Nam tiếp tục duy trì thứ hạng cao, ghi nhận năm thứ hai liên tiếp xếp thứ 42 trong số 131 quốc gia và nền kinh tế. Với thứ hạng này, Việt Nam giữ vị trí số 1 trong nhóm 29 quốc gia có cùng mức thu nhập và đứng thứ ba khu vực Đông Nam Á. Trong thực tế, Việt Nam được đánh giá khá cao trong một số bảng xếp hạng quốc tế như kỳ thi PISA về năng lực Toán học, Đọc hiểu và Khoa học. Chúng ta cũng có những nghệ sĩ tài năng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Theo nghiên cứu của Hội đồng Anh, từ năm 2014 đến năm 2018, số lượng không gian sáng tạo ở Việt Nam tăng từ 60 đến 140 trung tâm. Nhiều trung tâm, không gian sáng tạo đã có những bước phát triển mới, mang tính đột phá. Một số thí dụ cho thấy sự phát triển của các không gian sáng tạo này như Không gian sáng tạo Dreamplex (số 21 Nguyễn Trung Ngạn, quận 1, TP Hồ Chí Minh) là mô hình làm việc chia sẻ cộng đồng (co-working) dành cho các nhà sáng tạo, công ty khởi nghiệp, nhà tư vấn, đầu tư và người làm việc tự do (freelancer)… Đây là một không gian làm việc và kết nối những con người nhiệt huyết với giấc mơ khởi nghiệp - đang trở thành điểm đến của giới trẻ TP Hồ Chí Minh.
Đối với tiềm năng văn hóa, chúng ta tự hào là mảnh đất giàu truyền thống và đa dạng văn hóa. 54 dân tộc anh em cùng lịch sử hàng nghìn năm để tạo ra một kho tàng vô giá về di tích, nghi lễ, lễ hội, trò chơi dân gian, thủ công truyền thống, dân ca, dân vũ, ẩm thực, phong tục tập quán, truyền thuyết, hình tượng anh hùng...
Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng, dù chúng ta có những nỗ lực và thành công nhất định (năm 2019 đóng góp của các ngành công nghiệp văn hóa chiếm 3,61% GDP so với mục tiêu 3% đến năm 2020) nhưng vẫn chưa đáp ứng được với kỳ vọng của những người yêu mến văn hóa, nghệ thuật, cũng như khát khao khai thác giá trị văn hóa cho sự phát triển bền vững. Những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật của Việt Nam có thể chinh phục khán giả thế giới còn chưa nhiều. Tên tuổi, thương hiệu của các văn nghệ sĩ, nhà sáng tạo Việt Nam chưa thật sự được định hình rõ ràng trong khu vực và trên thế giới. Nói tóm lại, các ngành công nghiệp văn hóa chưa được khai thác hiệu quả, xứng tầm với lợi thế của bề dày văn hóa dân tộc, tài năng của con người Việt Nam.
Chúng ta có khá nhiều điểm nghẽn trong khai thác công nghiệp văn hóa. Đầu tiên chính là nhận thức của chúng ta về các ngành công nghiệp văn hóa cho dù thời gian qua nhận thức đối với công nghiệp văn hóa đã có nhiều thay đổi cơ bản. Chúng ta ít coi các lĩnh vực như điện ảnh, mỹ thuật, sân khấu, âm nhạc... là một yếu tố quan trọng của nền kinh tế. Trong khi nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã thấm sâu vào rất nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, thì văn hóa, nghệ thuật vẫn còn khá rụt rè trong việc khẳng định giá trị hàng hóa của mình. Chúng ta cần khẳng định sản phẩm văn hóa, nghệ thuật cũng là sản phẩm hàng hóa, tuy nhiên có lô-gích đặc biệt. Khi khẳng định tính chất hàng hóa của sản phẩm văn hóa, nghệ thuật, chúng ta mới chú ý nhiều hơn đến thị trường, phát triển khán giả, bản quyền, kỹ năng kinh doanh, xây dựng thương hiệu... Khi chúng ta xác định lô-gích đặc biệt của sản phẩm văn hóa nghệ thuật, chúng ta mới thấy rõ hơn tầm quan trọng của việc phát triển văn hóa vì sự phát triển bền vững, tạo nên niềm tự hào dân tộc và giúp khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh.
Thứ hai là chúng ta đang thiếu sự phối hợp trong phát triển công nghiệp văn hóa. Đến thời điểm này, sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa còn gặp khó khăn vì chưa thật sự có đầu mối đủ mạnh để định hướng sự phát triển này. Trong 12 ngành, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chỉ quản lý năm ngành gồm: điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm, quảng cáo, du lịch văn hóa. Điện ảnh thì có thể tạo ra sự hấp dẫn cho du lịch văn hóa, tạo điều kiện phát triển thời trang, ẩm thực. Du lịch văn hóa lại giúp phát triển các lĩnh vực khác trong xã hội. Vì thế, việc thiếu đầu mối đủ tầm và phối hợp giữa các ngành với nhau khiến việc phát triển công nghiệp văn hóa gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự phối hợp công-tư cũng chịu nhiều cản trở, trong đó có cả việc thiếu niềm tin lẫn nhau và sự hỗ trợ chính sách của Nhà nước. Những mô hình đầu tư, hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo đa phần là tự phát, đến từ niềm đam mê của các cá nhân yêu thích sáng tạo, mong muốn tìm ra điều mới mẻ cho cuộc sống và công việc kinh doanh. Nhưng bầu nhiệt huyết của họ sẽ gặp khó khăn khi thiếu đi sự hỗ trợ từ chính quyền hay của chính các doanh nghiệp tương tự trong mạng lưới sáng tạo.
Giáo dục sáng tạo và kỹ năng kinh doanh là điểm nghẽn thứ ba. Dù có nhiều cải tiến, thay đổi theo hướng hỗ trợ cho học sinh, sinh viên thực hành sáng tạo nhưng vì nhiều lý do, đặc biệt là khối lượng kiến thức cần học quá lớn, khiến cho các môn học liên quan đến sáng tạo, nghệ thuật chưa được coi trọng đúng mức. Trong khi đó, các môn học về nghệ thuật chẳng hạn, giúp học sinh, sinh viên rất nhiều trong việc hoàn thiện nhân cách, các kỹ năng mềm, và nhất là tinh thần sáng tạo. Tài năng nghệ thuật mới chỉ là yếu tố cần và phải có thêm kiến thức, hiểu biết về kỹ năng kinh doanh để tạo nên sự thành công của một nghệ sĩ. Việc học vẽ có thể rất quan trọng, nhưng việc xây dựng thương hiệu cho bản thân, tác phẩm hội họa và giao tiếp tốt với khách hàng mua tranh cũng quan trọng không kém. Đó chính là lý do tại sao các môn học về marketing nghệ thuật, kỹ năng kinh doanh, quan hệ công chúng lại nên được xem là những môn học chính ở các trường nghệ thuật.
Ngoài ra, những điểm nghẽn về chính sách hỗ trợ phát triển các ngành công nghiệp văn hóa như địa vị pháp lý cho các doanh nghiệp sáng tạo, sử dụng đất, thuế, luật về bảo trợ và hiến tặng,... cũng là những rào cản khác khiến các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam chưa thể cất cánh được!
Để mong muốn “cất cánh” trở thành sự thật, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm, trong đó có chính sách thu hút đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp văn hóa. Chính sách đầu tiên nên đến từ việc huy động sự tham gia của toàn xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp, trong việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Hợp tác công-tư là một hình thức nên được triển khai rộng rãi hơn nữa để thúc đẩy sự tham gia này. Một thí dụ cho thấy, điện ảnh Việt Nam trong những năm vừa qua bất chấp việc các hãng phim truyện nhà nước gặp khó khăn, vẫn có những khởi sắc nhất định từ đóng góp của các hãng phim tư nhân. Bên cạnh đó, điều quan trọng để tạo ra các chính sách thu hút đầu tư chính là việc chúng ta cần phải coi đầu tư vào văn hóa là đầu tư phát triển, không phải là lĩnh vực tiêu tiền, mà thậm chí đem lại nhiều tiền cho đất nước. Chỉ từ nhận thức như vậy, chúng ta mới hình thành các chính sách thu hút đầu tư phù hợp.