Nói về bệnh tự kiêu, Bác Hồ cho rằng "tự kiêu" tức là cho mình việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai. Thực chất, tự kiêu là mù quáng, vì người có bệnh tự kiêu thường chỉ trông thấy những việc tưởng như mình làm được, những điều mình tưởng mình biết hết; mà không trông thấy những điều mình không biết, những việc mình chưa làm được.
Trên cơ sở đó, Người phân tích các nguyên nhân và tác hại của bệnh tự kiêu.
Người khẳng định : Tự kiêu là hẹp hòi. Nguyên nhân do "tài đức độ lượng nhỏ nhen, không bao dung được những ý kiến và những phê bình của người khác". Bác lấy thí dụ một cái cốc, vì "hẹp hòi mà chỉ đựng được rất ít nước, thêm một chút nước nữa, là phải tràn. Trái với cái độ lượng rộng lớn của bể, bao nhiêu nước cũng vẫn chứa được".
"Tự kiêu là thoái bộ. Vì tự mãn, tự túc, không cố gắng học hỏi thêm; không theo kịp sự tiến bộ của thời đại". Do đó, tự kiêu cũng chính là "tự mình ngăn trở sự tiến bộ của mình".
"Tự kiêu là hủ hóa. Vì không chịu học những sự hay sự tốt của người; không ưa những lời phê bình thẳng thắn để sửa chữa những khuyết điểm của mình. Mà người đời ai chẳng có khuyết điểm to hay nhỏ, ít hay nhiều!"
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Tự kiêu nhất định sẽ đi đến thất bại. Vì kiêu ắt đi đôi với nịnh. Ðã kiêu thì ắt ghét những người tài giỏi hơn mình. Ưa những kẻ nịnh hót mình. Thân cận là những kẻ vô tài bất lực, nhưng khéo nịnh hót a dua. Xa cách hoặc dìm hãm những người có tài có đức hay bàn ngay nói thẳng. Như thế thì sao khỏi hỏng việc".
Nói về bệnh tự ái, Người giải thích: "Nghĩa chính của chữ tự ái là giữ đúng chữ cần, kiệm, liêm, chính. Không làm điều gì có hại đến danh dự và đạo đức của mình. Thế là chân chính tự ái, mà ai cũng phải tự ái".
Tuy nhiên, trên thực tế thì chữ tự ái lại được hiểu lầm theo nghĩa khác. Do đó mà hay chấp vặt, không can đảm tự phê bình, không ưa những lời phê bình ngay thẳng. Bác khẳng định: "Tự ái này luôn luôn đi đôi với tự kiêu, tự mãn, tự túc. Và kết quả là tự khí, nghĩa là mình tự ngăn trở mình tiến bộ, đồng thời đã tự kiêu tự ái, thì không thể đoàn kết. Không đoàn kết tức là cô độc. Ðã cô độc, thì chẳng việc gì thành công".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến kết luận: "Mỗi một người và tất cả mọi người chúng ta phải tẩy cho sạch bệnh tự kiêu, "tự ái". Ðó là hai thứ bệnh rất nguy hiểm cho đạo đức và công việc".
Tự kiêu, tự ái là một trong những nguyên nhân mà cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân dễ phạm phải trong công tác. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã "kê" ra một "thang thuốc thánh" để chữa bệnh này, thuốc gồm có "bốn vị" là:
- Thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình.
- Cố gắng sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm.
- Luôn luôn cố gắng học hỏi để luôn luôn tiến bộ.
- Thực hành đoàn kết.
60 năm đã trôi qua, ý nghĩa của bài viết "Bệnh tự kiêu, tự ái" vẫn còn nóng hổi tính thời sự, là lời răn dạy các tầng lớp cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân ta. Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện với tinh thần cầu thị, thấm nhuần các "vị thuốc" mà Bác Hồ đã nêu, để không còn bệnh tự kiêu, tự ái; vươn lên trong lao động, học tập và cuộc sống.
.....................................................
(1). Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.514-516.