Sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 7/9/2009 của Ban Bí thư về đẩy mạnh công tác bảo hiểm y tế trong tình hình mới (Chỉ thị số 38), công tác thực hiện chính sách bảo hiểm y tế trong giai đoạn 2009-2024 đã đạt được nhiều thành tựu, kết quả quan trọng.
Từng bước tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân bền vững
Theo thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, những năm qua, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc tổ chức thực hiện chính sách bảo hiểm y tế, số người tham gia năm sau luôn cao hơn năm trước, nhất là tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế tăng trưởng bền vững trong bối cảnh nền kinh tế gặp khó khăn, thách thức nhiều hơn là thuận lợi. Năm 2008, cả nước có 39,7 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, đạt tỷ lệ bao phủ 46,1% dân số.
Năm 2009, sau khi Chỉ thị số 38 được ban hành, cả nước đã có hơn 50 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 58,2% dân số. Đến năm 2023, cả nước đã có hơn 93,6 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tăng gấp 2,3 lần so năm 2008 (thời điểm chưa có Chỉ thị số 38), đạt tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế 93,35% dân số, vượt 0,15% so với Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ. Đặc biệt, kết quả phát triển người tham gia bảo hiểm y tế hộ gia đình có sự tăng trưởng rất ấn tượng, từ 3,76 triệu người tham gia (năm 2009) lên 24,89 triệu người (năm 2023).
Việc giữ vững tốc độ phát triển bảo hiểm y tế, trong khi đời sống người dân còn khó khăn một lần nữa đã khẳng định sự kiên định, quyết liệt của toàn hệ thống chính trị nói chung và ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam nói riêng trong việc thực hiện hiệu quả lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Đây vừa là nhiệm vụ chính trị vừa thể hiện trách nhiệm của ngành trong bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia, số lượng người tham gia bảo hiểm y tế được thụ hưởng chính sách càng lớn, quyền lợi của người thụ hưởng được bảo đảm đầy đủ, kịp thời. Với quan điểm xuyên suốt “Lấy người dân, doanh nghiệp làm chủ thể, trung tâm phục vụ”, ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam luôn nỗ lực bảo đảm đầy đủ, kịp thời, đúng quy định các quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng chính sách bảo hiểm y tế với số lượt người có thẻ bảo hiểm y tế đi khám, chữa bệnh tăng nhanh qua từng năm.
Từ năm 2009 đến 2023, bình quân lượt khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế mỗi năm là hơn 141 triệu lượt người/năm, với tổng chi phí khám, chữa bệnh bình quân 66,2 nghìn tỷ đồng/năm.
Đặc biệt, trong giai đoạn cả nước bị ảnh hưởng bởi đại dịch Covid-19, vai trò trụ cột của chính sách bảo hiểm y tế trong hệ thống an sinh xã hội càng được phát huy, góp phần chăm sóc sức khỏe, ổn định đời sống nhân dân, tạo thêm niềm tin vững chắc vào chính sách an sinh xã hội giàu tính nhân văn của Đảng và Nhà nước.
Nâng cao chất lượng phục vụ
Bên cạnh việc giải quyết, chi trả chế độ, chính sách bảo hiểm y tế đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, Bảo hiểm xã hội Việt Nam tập trung triển khai đồng bộ các giải pháp để tạo nhiều tiện ích, lợi ích cho người tham gia, thụ hưởng và cơ quan quản lý nhà nước trong việc phát hiện, phòng chống lạm dụng, trục lợi Quỹ Bảo hiểm y tế. Toàn ngành đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cắt giảm từ 115 thủ tục (năm 2015) xuống còn 25 thủ tục; ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong công tác nghiệp vụ, như: tin học hóa hầu hết các thủ tục tham gia bảo hiểm y tế và cấp thẻ bảo hiểm y tế; triển khai giao dịch điện tử đối với các tổ chức và cá nhân; triển khai 100% số dịch vụ công mức độ 4
cho các thủ tục hành chính của ngành bảo hiểm xã hội Việt Nam; tích hợp, cung cấp trên cổng Dịch vụ công Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Cổng Dịch vụ công quốc gia và ứng dụng VssID-Bảo hiểm xã hội số trên nền tảng thiết bị di động... Kết quả, các năm qua, hệ thống của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý gần 300 triệu lượt hồ sơ giao dịch trực tuyến, trong đó mỗi năm có hơn 170 triệu lượt đề nghị thanh toán chi phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế trên hệ thống thông tin giám định bảo hiểm y tế.
Bảo hiểm xã hội Việt Nam là một trong những đơn vị đi đầu trong triển khai các nhiệm vụ được giao tại Đề án 06 (Quyết định số 06/QĐ-TTg ngày 6/1/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030) và Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 4/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt danh mục dịch vụ công trực tuyến tích hợp, cung cấp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia năm 2022.
Trong đó, nổi bật là, phối hợp Bộ Công an trong việc chia sẻ thông tin thẻ bảo hiểm y tế để phục vụ khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp hoặc bằng ứng dụng VneID. Đến nay, tất cả cơ sở khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế đã triển khai khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế bằng căn cước công dân gắn chíp, với hơn 55,7 triệu lượt tra cứu thông tin thẻ bằng số định danh cá nhân/căn cước công dân thành công phục vụ làm thủ tục khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Đồng thời, Bảo hiểm xã hội Việt Nam phối hợp, hỗ trợ Bộ Y tế liên thông dữ liệu khám sức khỏe lái xe, giấy chứng sinh, giấy báo tử. Đến nay, trên toàn quốc có 1.216 cơ sở khám, chữa bệnh đã gửi dữ liệu giấy khám sức khỏe lái xe, với 2.058.654 dữ liệu được gửi; có 1.582 cơ sở khám, chữa bệnh gửi dữ liệu giấy chứng sinh, với 852.542 dữ liệu được gửi; 596 cơ sở khám, chữa bệnh gửi dữ liệu giấy báo tử, với 8.575 dữ liệu được gửi...
Cùng với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, chính sách bảo hiểm y tế không chỉ gia tăng tỷ lệ người tham gia, tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân mà còn bảo đảm tốt quyền lợi bảo hiểm y tế của người thụ hưởng; mở rộng phạm vi, chất lượng dịch vụ, khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Do đó, người dân ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, ý nghĩa, tính ưu việt của chính sách bảo hiểm y tế và tin tưởng, tích cực tham gia vào hệ thống an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước ta.