Cha tôi viết hồi ký Đại tướng Võ Nguyên Giáp

 Năm 1964 đã khởi đầu “mối duyên nợ văn chương đầy hứa hẹn” (chữ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp) giữa cha tôi và bác Văn.

Đại tướng và nhà văn Hữu Mai (ảnh chụp năm 2005).
Đại tướng và nhà văn Hữu Mai (ảnh chụp năm 2005).

MỖI CUỐN SÁCH, MỘT SỐ PHẬN

Cha tôi tâm sự, đã từ lâu ông ao ước được tiếp cận và viết về Đại tướng Tổng Tư lệnh mà ông rất ngưỡng mộ. Thế rồi dịp may đến khi Tổng cục Chính trị quân đội giới thiệu cha tôi giúp Đại tướng viết “Một vài hồi ức về Điện Biên Phủ” để in trong tập sách kỷ niệm 10 năm chiến thắng. Sau một tháng làm việc cùng nhau, cha tôi đã được Đại tướng chọn làm người thể hiện các tập hồi ký về giai đoạn chiến tranh chống Pháp, từ trước khi giành chính quyền đến lúc chủ nghĩa thực dân cũ bị kết liễu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.

Cũng năm 1964, cuốn sách đầu tiên ra đời mang tên Từ nhân dân mà ra. Tên được lấy trong lời dạy của Bác Hồ ở tác phẩm Sửa đổi lối làm việc: “Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ”, viết về giai đoạn bộ đội Việt Minh từ lúc phôi thai với 34 chiến sĩ Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã dần lớn mạnh, sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ trọng đại trong cuộc trường kỳ kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp.

Hồi ký thứ haiNhững năm tháng không thể nào quên khởi thảo năm 1970 (xuất bản năm 1972), về thời kỳ đầu chúng ta mới giành được chính quyền cho đến lúc Bác Hồ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Cuốn thứ ba Chiến đấu trong vòng vây(1995) viết về năm năm đầu kháng chiến trong vòng vây ác liệt của quân thù. Tiếp theo là Đường tới Điện Biên Phủ(1998), bắt đầu từ chiến dịch Biên Giới đến mùa xuân năm 1953, quân đội ta đã vượt qua những thử thách đầy vinh quang, mở ra con đường đi tới Điện Biên Phủ: Điểm hẹn lịch sử(2000). Tên của cuốn hồi ký cuối cùng này lấy từ câu nói nổi tiếng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Điện Biên Phủ là điểm hẹn mà Lịch sử dành cho những cuộc chiến tranh xâm lược trong thời đại ngày n a y ”.

Nhìn vào niên biểu trên có thể thấy cách quãng thời gian hơn 20 năm giữa cuốn hồi ký thứ hai và thứ ba (1972-1995). Bản thảo Chiến đấu trong vòng vây được hoàn thành vào đầu những năm 1980. Nhớ lại, đó là thời kỳ khó khăn chung của đất nước và của từng cá nhân. Cuốn sách tổng kết thực tiễn năm năm đầu rất quan trọng của cuộc kháng chiến đã viết xong, nhưng không hiểu vì sao không được xuất bản. Mẹ tôi kể lại, năm 1983, nhà tôi khi ấy ở Khu tập thể Nam Đồng, cả tiểu khu bị lụt nặng. Chỉ qua một đêm mà nước đã dâng lên tới gần mặt bàn, bếp dầu, nồi niêu, xoong chảo nổi lềnh bềnh trong nhà. Nhưng không ai nghĩ đến chăn màn, quần áo, thậm chí cả thùng đựng gạo (những hạt gạo quý như vàng thời bao cấp) mà ưu tiên chạy chồng tài liệu bản thảo cao ngang mặt người lên ngôi nhà 4 tầng gần đó để gửi. Ngày ấy, bản thảo đều viết tay bằng mực tàu mầu xanh, bên cạnh có góp ý, ghi chú sửa chữa của bác Văn bằng bút đỏ. Cha tôi kể lại: “Trời bên ngoài mưa lớn, người ướt cũng kệ, bỏ cả áo mưa ra để bọc bản thảo. Nếu chẳng may rơi xuống nước thì coi như mất cuốn sách!”.

Có một hôm giữa mùa hè, trời mất điện, mẹ tôi pha một ca nước đường to cho cả nhà giải khát, uống “chay” vậy thôi chứ làm gì có đá, thời bao cấp thế cũng là “sang” rồi.

Đêm muộn cha tôi mới ở “thành” về, mở cặp đưa cho mẹ tôi một quả táo: “Của anh Văn gửi cho em”. Đại tướng đã có sự quan tâm cả đến những người “vô danh” như vậy. Mẹ tôi bổ quả táo ra làm nhiều phần, mỗi người được một miếng nhỏ. Ăn đến đâu, mát đến đấy, mùi thơm lừng cả căn phòng. Ngày nay, táo Trung Quốc, táo Mỹ, táo Úc... bán đầy đường, muốn mua bao nhiêu cũng có, nên khó ai có thể chia sẻ được cảm giác thơm ngon ấy như chúng tôi cách đây mấy chục năm.

Cuối những năm 80, tôi đã có thể mua được cho cha một chiếc máy chữ. Nhiều hôm nghe tiếng đánh máy kỳ cạch tới nửa đêm. Những bản thảo viết tay đã được đánh thành nhiều bản, dù chưa biết khi nào cuốn sách mới khai sinh! Năm 1995, dịp kỷ niệm 20 năm giải phóng miền nam,Chiến đấu trong vòng vây được NXB Quân đội ấn hành. Chỉ trong vòng năm năm sau, Đường tới Điện Biên Phủ vàĐiện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử nối nhau ra đời.

Bộ hồi ký của Đại tướng hoàn thành có thời gian thực hiện tới 36 năm!

ĐÓ LÀ CƠ DUYÊN

Cha tôi nhiều lần nói với tôi rằng, việc thể hiện các cuốn hồi ký của Đại tướng chiếm một nửa sự nghiệp văn học của ông. Có nghĩa bao gồm cả tâm huyết, thời gian và tập trung trí tuệ. Nhiều lúc ông gần như “quên” hẳn chuyện văn chương của mình để toàn tâm làm công việc này.

Sau một thời gian làm việc, cha tôi nhận thấy thực hiện một bộ sách sử thi mang tầm vóc tổng kết toàn bộ cuộc chiến tranh chống Pháp, khi lịch sử đã có một độ lùi đáng kể, thì viết hồi ký theo cách ghi lại lời kể là không phù hợp. Đại tướng lại bận vô vàn công việc, vì vậy cha tôi đề nghị Đại tướng cho phép làm việc theo hình thức trao đổi, khai thác tư liệu, tham chiếu thêm từ nhiều nguồn khác rồi chủ động “thể hiện”.

Viết đến đâu, cha tôi sẽ trình lên Đại tướng thông qua đến đấy. Căn cứ yêu cầu của Đại tướng, ông sẽ sửa chữa cho đến khi bản thảo hoàn chỉnh mới thôi. Nói thì đơn giản như vậy, nhưng kỳ thực đây là một công việc vô cùng khó khăn. Đại tướng từng nói: “Nếu không có chiến tranh, thì tôi vẫn là một giáo viên dạy sử”.

Rất nhiều những bạn trẻ chờ đợi để được lần cuối đưa tiễn Đại tướng về nơi an nghỉ. Ảnh: DƯƠNG MAI

Ngoài thiên tài quân sự, ông còn là người vô cùng uyên bác nhiều lĩnh vực, đặc biệt là lịch sử. Ông lại rất nguyên tắc và luôn đòi hỏi cao trong công việc với tất cả mọi người. Có những thời điểm, do yêu cầu phải hoàn thành bản thảo gấp, cha tôi đã thức trắng nhiều đêm và gần như gục trên bàn làm việc, như lần viết Quyết định khó khăn nhất, chương 4 của Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử.

Mỗi lần thông qua bản thảo, ngoài phần nội dung, thì đó là những buổi “bình văn” không hề dễ dàng. Một vị tướng, nguyên là trợ lý cho bác Văn từng chia sẻ trong một hội thảo tại Thư viện Quân đội “viết một cái công văn mà Đại tướng yêu cầu tôi sửa lại đến bốn, năm lượt”, mà ở đây là hàng nghìn trang sách! Có những lần tôi chứng kiến cha tôi trở về nhà trong trạng thái khá căng thẳng. Nhưng rồi mọi chuyện qua đi, công việc lại được tiếp tục.

Chưa hết, khi mỗi cuốn sách cơ bản đã hoàn thành, Đại tướng yêu cầu những người liên quan đọc bản thảo, góp ý chỉnh sửa lần cuối. Công việc này cũng mất khá nhiều thời gian, bởi vì trí nhớ dù có xuất sắc đến đâu thì những chi tiết sự kiện xảy ra cách đây năm, sáu mươi năm cũng vẫn có thể thiếu chính xác. Đó là cách làm việc hết sức khoa học, nghiêm túc và trung thực! Cả cuộc đời, cha tôi luôn thấy mình không có đủ thời gian để “ghi lại” (chữ ông ưa dùng) những gì mình đã trải qua trong chiến tranh, để trả nợ các đồng đội của mình.

Cuốn sách cuối cùng của ông là chân dung văn học Đại tướng Tổng Tư lệnh trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Vẫn còn nhiều dự định dang dở, nhưng tôi tin chắc rằng ông chẳng bao giờ hối hận. Được làm việc bên Đại tướng là một trong những điều đắc ý nhất trong cuộc đời của cha tôi.

“Tôi đã dành trọn hai mươi năm để giúp anh Văn viết ba tập: Chiến đấu trong vòng vây, Đường tới Điện Biên Phủ, Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử. Cũng có người hỏi Đại tướng: “Vì sao lại chọn một nhà văn giúp mình viết về chiến tranh trong khi có những người được đào tạo rất cơ bản về quân sự sẵn sàng làm việc này?” Đó là cơ duyên.” - Cha tôi đã để lại những dòng như vậy.

* “Điện Biên Phủ là điểm hẹn mà Lịch sử dành cho những cuộc chiến tranh xâm lược trong thời đại ngày nay”.

* Cả cuộc đời, cha tôi luôn thấy mình không có đủ thời gian để “ghi lại” (chữ ông ưa dùng) những gì mình đã trải qua trong chiến tranh, để trả nợ các đồng đội của mình.

12-10-2013

Có thể bạn quan tâm