Những năm qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực, nhất là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế - xã hội đã bộc lộ nhiều bất cập và tạo ra nhiều áp lực lớn lên môi trường, các hệ sinh thái và đa dạng sinh học của đất nước. Tình trạng ô nhiễm môi trường tiếp tục diễn biến phức tạp, với nhiều điểm nóng, chất lượng môi trường nhiều nơi suy giảm mạnh. Đáng lo ngại, các sự cố môi trường tiếp tục gia tăng nghiêm trọng, nhiều vụ ảnh hưởng trên phạm vi rộng, diễn biến phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý và khắc phục hậu quả. Hầu hết các sự cố môi trường xảy ra do chủ cơ sở sản xuất, kinh doanh đổ thải trộm hoặc do công trình xử lý, lưu trữ chất thải gặp sự cố, cháy nổ, rò rỉ hóa chất, tràn dầu… dẫn đến lượng lớn chất thải chưa qua xử lý xả thải ra môi trường. Điển hình như sự cố môi trường biển tại bốn tỉnh miền trung liên quan đến Công ty TNHH Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (FHS); sự cố cháy nổ tại Công ty cổ phần Bóng đèn phích nước Rạng Đông… không những ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường, sức khỏe của người dân, mà còn đe dọa đến trật tự an ninh xã hội của đất nước.
Mặt khác, hiện chất lượng không khí ở các đô thị, nhất là các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh có xu hướng giảm và ngày càng nghiêm trọng. Với sự gia tăng các nguồn ô nhiễm không khí, chất lượng không khí vượt ngưỡng cho phép đã ảnh hưởng lớn đến đời sống và sức khỏe người dân. Trong khi đó, chất thải rắn sinh hoạt chưa được phân loại tại nguồn; tỷ lệ chôn lấp chiếm hơn 70%, chủ yếu là không hợp vệ sinh; vẫn còn gần 36,5% chất thải sinh hoạt khu vực nông thôn chưa được thu gom, xử lý… Theo PGS, TS Lưu Thế Anh (Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội). Những nguyên nhân gây suy thoái môi trường ở nước ta thời gian qua, trước hết là do quy mô nền kinh tế và dân số nước ta ngày càng tăng, mức độ công nghiệp hóa và đô thị hóa ngày càng cao; khai thác tài nguyên thiên nhiên ồ ạt và thiếu kiểm soát, phát sinh nhiều nguồn gây ô nhiễm, chất thải ngày càng tăng về thành phần và khối lượng. Trong khi đó, cơ sở hạ tầng thu gom và xử lý chất thải còn thiếu và không được đầu tư đồng bộ, dẫn đến các áp lực lên môi trường ngày càng cao, tác động xấu đến chất lượng môi trường, nhất là dẫn đến suy thoái các hệ sinh thái và đa dạng sinh học.
Hệ thống chính sách, pháp luật về BVMT còn chồng chéo và bất cập; các công cụ quản lý môi trường chưa phát huy được hiệu lực, hiệu quả; cách tiếp cận và công cụ quản lý mới chưa được thể chế hóa kịp thời và không theo kịp với những diễn biến nhanh của các vấn đề về môi trường và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước. Mô hình tổ chức cơ quan quản lý về môi trường từ trung ương đến địa phương còn bất cập và yếu kém về năng lực, chưa đáp ứng kịp yêu cầu quản lý đối với một số lĩnh vực lớn, phức tạp, nhạy cảm đang gia tăng. Nguồn tài chính đầu tư cho BVMT từ ngân sách nhà nước và vốn doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu; thiếu cơ chế đột phá để huy động nguồn tài chính cho công tác này. Nhận thức và đạo đức môi trường, ý thức trách nhiệm BVMT của doanh nghiệp, cộng đồng tại nhiều nơi còn thấp, dẫn đến thiếu ý thức tự giác trong công tác BVMT ở các địa phương...
Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho rằng: Để phát huy hiệu quả quản lý, sử dụng các tài nguyên thiên nhiên, BVMT, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu cho phát triển đất nước thời gian tới. Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ phối hợp các bộ, ngành, chính quyền địa phương tiếp tục tập trung xây dựng các quy hoạch quốc gia, các quy hoạch ngành, địa phương nhằm giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với BVMT. Chuẩn bị các điều kiện, nguồn lực cần thiết cho triển khai Luật Bảo vệ môi trường (năm 2020) để các quy định mới của luật đi vào thực tiễn cuộc sống. UBND tỉnh, thành phố cần tập trung xây dựng và ban hành các quy định, cơ chế, chính sách như: khuyến khích xã hội hóa đầu tư xây dựng, kinh doanh và vận hành công trình hạ tầng BVMT tại các khu, cụm công nghiệp; ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động xử lý chất thải. Tập trung quản lý môi trường các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề; rà soát kiên quyết yêu cầu phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung, đối tượng có quy mô xả thải lớn, lắp đặt hệ thống thiết bị kiểm soát, giám sát hoạt động xả thải; áp dụng chế tài để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường thực hiện các yêu cầu về BVMT thực hiện lộ trình chuyển đổi công nghệ...
Các chuyên gia, các nhà khoa học cũng cho rằng: Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, suy thoái môi trường. Trong đó, cần xây dựng và thực hiện có hiệu quả quy hoạch BVMT quốc gia, đưa các nội dung về tài nguyên môi trường trong quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, quy hoạch tỉnh. Tăng tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho BVMT theo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; ưu tiên xã hội hóa, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ cho việc phát triển các công nghệ xử lý, tái chế chất thải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đẩy mạnh chính sách phát triển kinh tế chất thải, các ngành công nghiệp môi trường, xử lý ô nhiễm, quản lý chất thải và cung ứng dịch vụ BVMT.